Nghiên cứu tại các trường đại học Hoa KỳCác trường đại học sẽ đóng một vai trò quan trọng đối với tương lai của quốc gia, và cả thế giới sẽ luôn luôn hướng về những trường đại học này với sự ngưỡng mộ đối với những thành quả nghiên cứu, giảng dạy và những nhiệm vụ mang lại lợi ích cho cộng đồng của chúng.
Trang bìa bản báo cáo năm 1989 của NSF có trích dẫn những dòng viết của Albert Einstein:
"Hãy luôn luôn nhớ trong đầu rằng, những điều thú vị mà bạn học được ở trường chính là công sức của rất nhiều thế hệ...Tất cả những điều này đang được đặt vào đôi tay của bạn, bạn có thể thừa hưởng chúng, hãy trân trọng chúng, hãy phát triển chúng lên, và rồi một ngày, hãy thân ái mà trao lại chúng cho những đứa trẻ của bạn".
Nền tảng lịch sử và những bước đi đầu tiên.Theo nhiều nhà nghiên cứu cổ sử, các trung tâm học vấn và giáo dục đầu tiên đều được bắt nguồn từ những nền văn minh cổ ở Trung Đông, Hy Lạp, Châu Phi và Nam Mỹ. Tuy nhiên, sự ra đời của những trường đại học nghiên cứu ở Mỹ có lẽ lại là một kết quả ngoài dự định nảy sinh từ những cuộc chinh phục, xâm chiếm của Napoleon.
Những chiến thắng của Napoleon năm 1806 đã làm sụp đổ hệ thống chính trị và quân sự của Vương quốc Phổ. Trong những nỗ lực tái thiết, công việc đầu tiên của nước Phổ là vực dậy toàn bộ hệ thống giáo dục của nó dưới sự điều hành của Bộ nội vụ. Đại học Berlin được thành lập năm 1809 cùng với sự ra đời của Hội Hoàng gia, để hình thành một trung tâm giáo dục và nghiên cứu không giống bất cứ trung tâm nào đã biết trước đó. Đây là một trường đại học mà các giáo sư trong trường đều là những học giả không chịu bất cứ sự ràng buộc nào mang tính tôn giáo và hệ tư tưởng triết học với nhiệm vụ hàng đầu là tạo ra một môi trường tự do trong nghiên cứu để tìm ra chân lý, sau đó mới là hoạt động giảng dạy và phổ biến kiến thức. Và Đại học Berlin đã đạt được những thành công rất lớn lao, thu hút được rất nhiều học giả lừng danh trên thế giới đến làm việc. Sau đó Đại học Born được tái thành lập cũng đi theo con đường của Đại học Berlin và các trường đại học ở Đức đã trở thành hình mẫu chuẩn mực được áp dụng rộng rãi ở Châu Âu, Châu Mỹ và Châu Á.
Những học giả và những sinh viên từ khắp nơi trên thế giới đều được chào đón ở các trường đại học Đức. Trong khoảng thời gian 100 năm, từ 1820-1920, khoảng 9000 học giả đã nghiên cứu tại các trường đại học Đức, hầu hết họ đều giành được học vị tiến sỹ, trong đó có rất nhiều những học giả Mỹ từng làm việc và học tập ở Đức. Họ đã trở về Mỹ và xây dựng những trường đại học của họ theo mô hình của Đức.
Các trường đại học nghiên cứu ở Đức phát triển mạnh mẽ và trở nên cực kỳ danh tiếng trên thế giới cho đến khi nhà nước quốc xã xuất hiện. Tất cả trở thành một thảm kịch khi chế độ quốc xã đã bóp chết sự tự do trong giáo dục và nghiên cứu, kèm theo đó là sự loại bỏ những học giả "không phải là người Aryan" ra khỏi các viện nghiên cứu, tiếp đến là chiến tranh, các trường đại học Đức bị tàn phá nghiêm trọng.
Phòng thí nghiệm của Viện Công nghệ Massachuset Năm 1636, trường đại học đầu tiên ở Mỹ (Havard) được thành lập. Trong những năm trước nội chiến, các trường cao đẳng và đại học non trẻ của Mỹ đã chỉ tập trung vào lĩnh vực đào tạo. Khi quá trình đô thị hóa và mở rộng vùng định cư cùng với sự phát triển của lực lượng công nghiệp sau thời nội chiến đã làm nảy sinh những nhu cầu phát triển những tiến bộ khoa học kỹ thuật và đào tạo trình độ cao. Đạo luật Morrill năm 1862 đã tạo ra những cơ hội cho sự ủng hộ tài chính để thiết lập và duy trì ít nhất là một trường đại học ở mỗi bang. Những trường đại học này được xây dựng để phục vụ việc đào tạo, nhưng "không ngoại trừ những nghiên cứu khoa học và nghiên cứu kinh điển khác". Chính điều này đã mở rộng cánh cửa cho sự phát triển của những nghiên cứu được hỗ trợ bởi các trường đại học. Năm 1887, đạo luật Hatch đã tạo điều kiện để các trạm thí nghiệm nông nghiệp do chính phủ trả tiền được xây dựng, các trạm này đã làm tăng thêm sức mạnh của những đề án nghiên cứu.
Mặc dù lĩnh vực nghiên cứu đã phát triển nhưng đến cuối những năm 1860, nhiệm vụ chủ yếu của các trường đại học vẫn chỉ là giảng dạy. Vào thời điểm 1868-1869, các thống đốc Andrew White ở Cornell và Charles Eliot ở Havard vẫn chủ trương tập trung vào giảng dạy. Một số người điều hành trường đại học đã đưa ra báo động về việc phải làm tăng thêm tính chuyên sâu trong nghiên cứu khoa học. Thậm chí vào năm 1976, người đứng đầu Đại học Johns Hopkins - một trường theo mô hình Đức đã phát biểu rằng, giảng dạy phải là bổn phận bắt buộc, còn chuyện nghiên cứu thì cứ tùy ý.
Kể từ những năm 1880, nhiệm vụ nghiên cứu của các đại học Hoa Kỳ đã bắt đầu được chú ý nhiều hơn. Chẳng hạn, năm 1880, Havard đã thiết lập những trung nghiên cứu đầu tiên, hoạt động vào các kỳ nghỉ phép. Những trung tâm này đã giải phóng các nhà khoa học khỏi công việc giảng dạy để họ có thể tự do theo đuổi đề tài nghiên cứu của riêng mình.
Havard có lẽ là nơi đầu tiên nhận được một khoản tiền lớn để hỗ trợ cho việc nghiên cứu. Năm 1880, một cá nhân đã dành cho Havard số tiền 115.000 USD với điều kiện Havard phải bỏ ra 75.000 USD để tài trợ cho chi phí hoạt động của cái gọi là Phòng thí nghiệm Vật lý Jefferson. Năm 1888, các đại học California và Chicago cũng đã xây dựng những đài quan sát thiên văn với nguồn tài chính giống như vậy.
Bầu không khí cũng đang thay đổi ở một số cơ sở nghiên cứu, năm 1893, người đứng đầu Đại học Chicago, William Harper đã vạch ra nhiệm vụ nghiên cứu học thuật và xuất bản các công trình nghiên cứu. Đầu những năm 1900, những trung tâm nghiên cứu trọng điểm, chẳng hạn như Viện Carnegie đã được xây dựng. Tuy nhiên, các trường đại học vẫn là ngôi nhà chính của tất cả những nỗ lực nghiên cứu.
Trước sự vươn lên của các trường đại học, năm 1900, Hội Liên hiệp các Đại học Mỹ ra đời với 12 thành viên đầu tiên. Sự thi đua để giành được uy tín cũng như tài chính đã thúc đẩy các trường đại học nâng cao năng lực giáo dục cũng như đẩy mạnh các chương trình nghiên cứu. Và khi nghiên cứu ngày càng lớn mạnh, các chương trình đào tạo tiến sỹ cũng được mở rộng. Johns Hopkins trở thành trường có số tiến sỹ nhiều nhất trong những năm 1880 và 1890. Tuy nhiên, cho đến đầu thế kỷ 20, Havard, Columbia và Chicago đã vươn lên dẫn đầu về thành tích này.
Đầu thế kỷ 20, một số cải cách đã được thực hiện đối với lĩnh vực nghiên cứu phát triển ở đại học như Đại học Chicago được xây dựng như một đại học "dịch vụ", một phần của tính chất dịch vụ ấy là sự đòi hỏi phải có một chiến lược nghiên cứu năng động. Cùng với chiến lược nghiên cứu, nó cũng mở rộng thời gian một năm học cho cả bốn mùa, kể cả mùa hè. Điều này đã cho phép các sinh viên hoàn thành quá trình học tập nhanh hơn, tạo cơ hội để họ có thể hoàn thành chương trình cử nhân trong 3 năm. Đến năm 1920, Hoa Kỳ đã có 16 trường đại học nghiên cứu, bao gồm Đại học California, Illinois, Michigan, Minnesota, Wisconsin, Caltech, Chicago, Columbia, Cornell, Havard, Johns Hopkins, MIT, Pennsylvania, Princeton, Stanford và Yale. Bất cứ lúc nào, tất cả những trường này cũng đều là những trường nghiên cứu rất mạnh.
Năm 1915, Hội Liên hiệp các Giáo sư Đại học Hoa Kỳ (AAUP) được thành lập. Sự chuyên nghiệp hóa và liên kết chuyên môn này cũng đã hỗ trợ cho chiến lược nghiên cứu. Các nguyên tắc về sự thông thoáng trong học vấn cũng như việc bổ nhiệm chức vụ cũng đã được thiết lập, những nguyên tắc này đã bảo vệ những nhu cầu nghiên cứu tự do khỏi sự chi phối quá đáng của quyền lực cũng như các tư tưởng bè phái tôn giáo.
Sự hỗ trợ nghiên cứu từ chính phủTrong giai đoạn 1900-1920, nguồn tài chính dành cho những nỗ lực nghiên cứu của đại học Mỹ thật hạn hẹp. Yêu cầu đặt ra là phải có một nguồn tài chính ổn định và dồi dào hơn trong nhiều năm. Những chi phí cho thiết bị nghiên cứu ngày tăng nhanh theo mức độ ngày càng tinh xảo của khoa học. Sự cạnh tranh của các trường trên vũ đài nghiên cứu đã phát sinh những nhu cầu cao hơn về lương bổng trả cho các nhà khoa học. Năm 1920, Hội đồng nghiên cứu Quốc gia đã thực hiện một cuộc điều tra về những chi phí tài chính cho nghiên cứu trong toàn liên bang. Điều tra đã cho thấy, những nghiên cứu thích đáng được tài trợ hoặc trả tiền qua sự phân bổ ngân sách dài hạn về đại để đều là những nghiên cứu tốt nhất.
Cuộc khủng hoảng lớn vào đầu những năm 1930 đã tác động xấu đối với các trường đại học và viện nghiên cứu của Hoa Kỳ hồi ấy. Tuy nhiên, trong giai đoạn sau chiến tranh thế giới II, những nỗ lực thực sự đã được thực hiện ở mức toàn liên bang để đẩy mạnh nghiên cứu khoa học công nghệ song song với giáo dục đại học. Chính điều này đã có ý nghĩa rất lớn đến sự thịnh vượng và an ninh quốc gia của Hoa Kỳ.
Năm 1950, Quỹ Khoa học Quốc gia (NSF) được thành lập. Cũng vào năm đó, Đạo luật Quỹ Khoa học Quốc gia đã thiết lập nền tảng pháp lý cho việc hỗ trợ tài chính cho nghiên cứu khoa học và đào tạo. Năm 1955, NSF đã tiến tới một sự đầu tư khoa học lớn bằng việc xây dựng những trung tâm thiên văn và khoa học khí quyển. Trong những năm 1957-1958, sự thành công của Liên Xô với Sputnik I đã mở rộng tầm với của con người ra vũ trụ, điều này đã tạo ra một cú sốc đối với cộng đồng chính trị và khoa học của Hoa Kỳ. Yêu cầu đặt ra cho Hoa Kỳ là phải đẩy mạnh hơn nữa đào tạo nhà khoa học và nghiên cứu cơ bản để duy trì vị trí số một thế giới của họ. Và tất nhiên, tiếp sau đó là sự đầu tư mạnh tay hơn rất nhiều của liên bang.
Phòng thí nghiệm FermiNăm 1968, một sự bổ sung chỉnh lý cho Đạo luật NSF đã mở rộng nhiệm vụ của nó đến việc hỗ trợ cho các nghiên cứu ứng dụng và khoa học xã hội. Mặc dù đã có một sự chững lại trong việc hỗ trợ NSF cho nghiên cứu và đào tạo khoa học vào đầu những năm 1980 - khoảng 1 tỷ USD, nhưng năm 1988, tổng thống Ronald Reagan đã đề nghị tăng gấp đôi ngân sách NSF trong vòng 5 năm. Đến năm 1990, 40 năm sau khi ra đời, ngân sách hàng năm của NSF lần đầu tiên đã vượt quá 2 tỷ USD.
Năm 1987, Robert Rosenzweig, chủ tịch Hội Liên hiệp Đại học Hoa Kỳ đã đưa ra tổng kết về các đại học nghiên cứu trong giai đoạn 1947-1987. Trong giai đoạn này, số đại học nghiên cứu đã tăng lên khoảng 100. Chúng ngày càng trở nên quy mô hơn, cạnh tranh mạnh hơn, gắn liền việc hoạch định chính sách hơn và phụ thuộc nhiều hơn vào hỗ trợ chính phủ.
Mối quan hệ giữa nghiên cứu của trường đại học và nền công nghiệp Nền công nghiệp phải dựa vào các trường đại học để có được những người làm việc chuyên nghiệp, được đào tạo tốt về kỹ năng. Hơn thế, nền công nghiệp đã ngày càng phụ thuộc vào các trường đại học vì bản thân nó không thể tự thực hiện được những nghiên cứu cơ bản cũng như ứng dụng.
Mong muốn của chính phủ là, nền công nghiệp sẽ biến những thành quả của nghiên cứu đại học thành những sản phẩm mới, phục vụ đời sống. Do vậy, chính phủ đã luôn luôn ủng hộ sự trao đổi mật thiết giữa trường đại học và nền công nghiệp. Năm 1978, tiến sỹ Martin Cooper, khi ấy là giám đốc của bộ phận Phân tích, Hoạch định Chiến lược của NSF đã phát biểu ở Hội các nhà Quản lý Nghiên cứu về yêu cầu phải có một sự kết hợp lớn hơn nữa giữa nghiên cứu hàn lâm và nền công nghiệp. Chính phủ thì nhận ra rằng, thật không dễ dàng gì đối với nhiều công ty trong việc thương mại hóa những kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học. Một loạt những chương trình mang tính khuyến khích đã được vạch ra bởi các chính quyền bang và liên bang.
Vì sự khác nhau về mục tiêu và cơ chế điều hành nên các trường đại học và nền công nghiệp không dễ gì cùng làm việc. Các đại học là những tổ chức phi lợi nhuận. Điều này có nguyên nhân sâu xa từ những nguyên tắc của tự do trong học thuật hàn lâm cũng như đòi hỏi phải chia sẻ những kết quả qua việc xuất bản, trao đổi khoa học quốc tế và giảng dạy. Các trường đại học nói chung không "ấn định" những đề tài nghiên cứu cho cá nhân, mỗi nhà nghiên cứu thường tự chọn chủ đề cho mình. Còn với các tổ chức công nghiệp, lợi nhuận là bắt buộc đối với nhiệm vụ của họ. Những nghiên cứu phát triển cho ra đời những sản phẩm mới luôn cần phải giữ bí mật, để luôn có thể duy trì được ưu thế cạnh tranh. Do đó, các trường đại học và các tập đoàn công nghiệp dù rất muốn gắn kết lại để đôi bên cùng có lợi nhưng vẫn rất khó có thể làm việc với nhau một cách thoải mái. Ở đây, sự thỏa hiệp và kiên nhẫn là cần thiết.
Trong những năm gần đây, khi các trường đại học tập trung những nỗ lực của họ vào sự đơm hoa kết trái trong mối liên kết đại học-công nghiệp, họ đã rất cố gắng để chuyển giao những phát minh có bằng sáng chế cho công nghiệp. Các nhà nghiên cứu đã được khuyến khích tham gia hoặc thành lập những công ty "spin-off" để thương mại hóa những công nghệ triển vọng. Trong một số trường hợp, các trường đại học nhận được quyền lợi ngang bằng với các công ty. Là trụ cột của công ty, các chuyên gia nghiên cứu nhận được nhiều ưu đãi thích đáng với năng lực của họ. Cũng có những sự khuyến khích lớn dành cho các nhà nghiên cứu để họ trau dồi những kỹ năng thương mại. Điều được mong đợi là, tất cả sẽ đều có lợi, bao gồm nhà nghiên cứu, trường đại học, và cả cộng đồng.
Tuy nhiên, việc các nhà nghiên cứu, ngoài chuyện hứng thú với thương mại họ cũng thường muốn giữ lại những chuẩn mực hàn lâm đã trở thành một vấn đề. Họ có bổn phận với ai? Họ có thể vô tư trong việc đánh giá các kết quả khoa học, những thứ mà có thể đối nghịch với lợi ích thương mại được hay không? Ngay cả khi những động cơ cá nhân và đạo đức là trong sáng, khi bước vào bên trong môi trường một công ty, các nhà nghiên cứu có thể sẽ mất bớt mức độ tin cậy vào họ so với một nhà khoa học độc lập.
Hiện nay, vẫn còn nhiều trường đại học đang làm cản trở những mối quan hệ mật thiết đại học-công nghiệp khi nhận ra rằng những quan hệ này có thể làm hỏng sự theo đuổi những mục tiêu của riêng họ. Vì vậy chính phủ cần phải có các chính sách hiệu lực để điều phối những mối quan hệ giữa các trường đại học và nền công nghiệp.
Trung Dũng
Nguồn tin: lược dịch -
Tia Sáng
Tất cả là phù du.