MEN-ĐÊ-LÊ-ÉP Đơ-mi-tơ-ri I-va-nô-vích (1834-1907). Nhà hóa học vĩ đại Nga, người sáng lập ra hệ thống chu kỳ của các nguyên tố. Men-đê-lê-ép đã công hiến nhiều cho sự phát triển công nghiệp nước Nga; ông là người đầu tiên đề ra tư tưởng về việc làm cho than đá ở dưới đất biến thành chất hơi (khí), tư tưởng đó về sau đã được Lê-nin đánh giá rất cao. Là nhà cách mạng trong lĩnh vực khoa học, Men-đê-lê-ép đã luôn luôn cố gắng liên hệ lý luận với thực tiễn, và đáp ứng nhu cầu phát triển công nghiệp của nước Nga. Men-đê-lê-ép tự nhận mình là ìnhà thực tại luận” trong triết học. Về cơ bản thì, ìthực tại luận” của ông là một chủ nghĩa duy vật kết hợp với một phép biện chứng về tính tự phát. ì... Từ nay, nếu không có vận động tự phát..., thì bất cứ một phần rất nhỏ nào của vật chất cũng đều không thể quan niệm được... Vận động đã trở thành một khái niệm mật thiết gắn liền với khái niệm vật chất...” (Men-đê-lê-ép). Ông đã đấu tranh chống thuật giáng thần và duy năng luận. Năm 1869, Men-đê-lê-ép phát hiện ra định luật tuần hoàn về các nguyên tố, tức là cơ sở của hệ thống tuần hoàn của các nguyên tố. Theo định luật đó, tính chất của các đơn chất, cũng như hình thức và tính chất của các hợp chất đều có quan hệ lệ thuộc có tính chất tuần hoàn với trọng lượng nguyên tử nhiều hay ít của các nguyên tố. Trong khi xác định mối quan hệ giữa mặt lương và mặt chất của các nguyên tố, tức là giữa tính chất hóa học và trọng lượng của nguyên tử, ông đã phát triển nguyên tử luận của Lơ-ma-nô-xốp, và trên thực tiễn ông đã áp dụng vào các nguyên tố quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về số lượng thành những thay đổi về chất lượng. Trong khi sắp xếp các nguyên tố theo thứ tự từ thấp lên cao của trọng lượng nguyên tử, Men-đê-lê-ép đã nhận thấy rằng những tính chất của đơn chất đều lập lại một cách tuần hoàn. Vì thế nên ông đã sắp xếp những nguyên tố đồng loại lần lượt cái này sau cái kia. Cách phân loại của ông vạch rõ mối liên hệ phổ biến và sự chế ước lẫn nhau của các nguyên tố đó. Trên bảng nguyên tố của Men-đê-lê-ép, còn có những ô trống, ở đó sẽ phải xếp những nguyên tố chưa phát hiện ra. Ông dự kiến trước tính chất cơ bản của những nguyên tố đó bằng cách lấy mức trung bình của những tính chất của các nguyên tố lân cận. Những vật thể do Men-đê-lê-ép tiên đoán đã được Lơ-cốc đơ Boa-bô-đơ-ran (1875), Nin-xơn (1880), Vin-cơ-le (1886) phát hiện ra và được gọi là ga-li, xcan-đi và giéc-man. Tính chất của những nguyên tố đó hầu như hoàn toàn ăn khớp với những tính chất mà Men-đê-lê-ép đã dự kiến: chẳng hạn, trọng lượng nguyên tử của giéc-man là 72,6 mà dự tính là 72. Do cách vận dụng tự phát quy luật biện chứng về việc chuyển hóa từ những thay đổi về số lượng thành những thay đổi về chất lượng, mà Men-đê-lê-ép đã được đề cao trong khoa học.
M đã dùng thực tiễn để chứng minh tri thức của người ta về những quy luật thế giới khách quan là có thể tin cậy được và do đó ông đã giáng một đòn cuối cùng vào bất khả tri luận; đồng thời bằng sự phát hiện quy luật khách quan của các nguyên tố hóa học, Men-đê-lê-ép đã gạt tính ngẫu nhiên ra khỏi hóa học. Men-đê-lê-ép viết: Nếu không có định luật tuần hoàn, thì việc phát hiện ra những nguyên tố mới ì... chỉ có thể thực hiện bằng cách quan sát... Chỉ riêng sự ngẫu nhiên mù quáng, một sự minh mẫn đặc biệt mới đạt đến kết quả phát hiện ra những nguyên tố mới... Về mặt đó, định luật tuần hoàn mở ra một con đường mới...”. Các nhà hóa học nước ngoài đã phủ nhận một cách vô căn cứ quyền ưu tiên của Men-đê-lê-ép trong việc phát hiện ra quy luật đó. Là người bảo vệ khoa học Nga, Men-đê-lê-ép đã chứng minh rằng tất cả những công trình nghiên cứu của các nhà khoa học nước ngoài đều có sau công trình của ông. Chẳng hạn, chính ngay Mây-e cũng không công nhận định luật tuần hoàn là một quy luật khách quan của giới tự nhiên và không dám vận dụng định luật đó vào những dự kiến khoa học; vả lại, Mây-e là một nhà cơ giới luận, chỉ nghiên cứu phương diện bên ngoài, thuần túy số lượng của những mối quan hệ giữa các nguyên tố, và phủ nhận phương diện chất lượng, do đó phủ nhận cả chính thực chất của định luật luật tuần hoàn.
Về vật lý học, Men-đê-lê-ép đã phát hiện ra ìnhiệt độ tới hạn”, việc đó chấm dứt tình trạng đối lập siêu hình trước đây giữa các thể lỏng và thể hơi; ông đã đính chính định luật Boi-lơ Ma-ri-ốt và vạch rõ tính tương đối của định luật đó. Trong cuốn Chống Đuy-rinh, Ăng-ghen đã đánh giá cao những phát hiện đó của Men-đê-lê-ép.
Sang thế kỷ XX, sự phát triển của các học thuyết về sự cấu tạo của vật chất, trước hết là học thuyết về sự cấu tạo điện tử của nguyên tử, hoàn toàn dựa hệ thống tuần hoàn của Men-đê-lê-ép. Nếu người ta lần lượt đánh số các nguyên tố theo cách sắp xếp của Men-đê-lê-ép, thì số thứ tự của mỗi một nguyên tố sẽ bằng điện tích dương của hạt nhân nguyên tử của nó; còn các tính chất hóa học, thì chủ yếu lệ thuộc vào cách tập hợp của các điện tử xung quanh hạt nhân. Khi điện tích của hạt nhân tăng lên một đơn vị và khi số lượng điện tử trong nguyên tử cũng tăng lên một cách tương đương, thì các loại hình tổ hợp của các điện tử đều lặp lại, điều đó quyết định tính chất tuần hoàn trong những sự thay đổi tính chất của các nguyên tử. Thế cho nên định luật tuần hoàn của Men-đê-lê-ép, trong công thức mới nhất của nó, quy định rằng tính chất các nguyên tố đều có quan hệ phụ thuộc tuần hoàn vào số thứ tự hay điện tích của hạt nhân nguyên tử. Vì khối lượng nguyên tử có liên hệ mật thiết với điện tích của hạt nhân, nên Men-đê-lê-ép có thể lợi dụng trọng lượng nguyên tử để phát hiện định luật tuần hoàn của mình. Cách phân hạng của Men-đê-lê-ép chẳng những chỉ phản ánh những mối quan hệ lẫn nhau, mà còn phản ánh những sự biến đổi thật của các nguyên tố hóa học và các hợp chất của những nguyên tố đó. Những phản ứng hạt nhân nguyên tử và sự phân liệt có tính chất phóng xạ của nguyên tử đều phù hợp với những sự đổi chỗ trong hệ thống tuần hoàn (ìđịnh luật đổi chỗ”). Việc chia tách các hạt nhân của những nguyên tố nặng (u-ra-ni-um, v.v...) cũng tiến hành phù hợp với hệ thống tuần hoàn của m; quy luật đó, ngày nay, giúp người ta làm chủ được năng lượng nguyên tử. Sự tiến hóa của vật chất tinh thể và sự phân phối các hợp chất hóa học trong quá trình tiến hóa của trái đất đều được phản ánh trong hệ thống của Men-đê-lê-ép. Vì thế, quy luật đó là quy luật phát triển của vật chất vô cơ, nó có một tác dụng bậc nhất trong việc chứng minh quan điểm duy vật chủ nghĩa và biện chứng của giới tự nhiên. Men-đê-lê-ép đương nhiên là người sáng lập học thuyết hiện đại về vật chất, nguyên tử và nguyên tố.
Tác phẩm chủ yếu của ông: Nguyên lý hóa học.
Bài viết đã được chỉnh sửa nội dung bởi ngocson52: 23-02-2005 - 22:07