Saclơ Rôbơc Đácuyn (1809-1882)1. Tuổi thơ và những năm đi họcNhà sinh học vĩ đại Saclơ Rôbơc Đácuyn sinh ngày 12-2-1809 ở Sơriuxơbơri là một thị trấn nhỏ của nước Anh. Ông nội của Đácuyn (Tức Êrasmơ Đácuyn) là một nhà khoa học có tiếng, đồng thời vừa là thày thuốc và là một nhà thơ Êrasmơ Đácuyn đã có những quan niệm tiến bộ về thiên nhiên, phản ánh tư tưởng biến hình luận và những yếu tố của tiến hóa luận. Cha của Đácuyn (Rôbớc Uarinh Đácuyn) cũng là một bác sĩ giỏi. Trong cuốn tự thuật, Đácuyn đã viết về cha mình như sau: ìthật là một người thông minh bậc nhất, có một khả năng quan sát đặc biệt và một nhiệt tình nóng hổi đối với nhân dân”. Những đặc điểm quý đó đã ảnh hưởng sâu sắc đến Đácuyn.
Năm 9 tuổi, Đácuyn đi học tại trường của thị trấn. Như Đácuyn đã kể lại, ở đây ông chẳng học gì cả vì không thích các môn cổ điển tiếng Hy lạp và La tinh. Tuy nhiên, trong thời gian này, Đácuyn đã sớm tỏ ra ham thích thiên nhiên, đặc biệt là thích làm vườn, quan sát và thu nhập côn trùng, cây cối, thích bắn chim và câu cá. Thân sinh của Đácuyn muốn ông cũng sẽ trở thành thầy thuốc nên, năm 1826, cho ông vào học hệ y khoa của trường Đại học Êđinbơc. Nhưng ở đây Đácuyn cũng chẳng hề thích thú với những bài giảng khô khan về giải phẫu và y học mà ngày càng ham mê sinh học. Ông đã không bỏ phí thời gian, liên hệ với một số nhà tự nhiên học, đặc biệt nhà động vật học R.E. Gơrantơ là người đầu tiên đã giúp ông làm quen với học thuyết của Lamac. Bản thân Đácuyn đã tiến hành một số khảo sát động vật ở biển và năm 17 tuổi đã đọc 2 bản báo cáo về động vật trước một hội khoa học. Hai năm sau, khi đã thấy nghề nghiệp bác sĩ không lôi cuốn được Đácuyn, cha ông chuyển ông sang học khoa thần học ở trường Đại học Cambơrit. ở đây 3 năm, Đácuyn cũng chẳng chú ý đến thần học, không mấy khi đến lớp mà chỉ thích cưỡi ngựa đi săn và đọc các sách tự nhiên học. Trong những năm học ở Cambơrit, Đácuyn chịu ảnh hưởng lớn của giáo sư thực vật học J.S. Henslô, giáo sư địa chất học A. Xetuých và giáo sư thiên văn học Iuen. Đácuyn dã cùng Xetuých tổ chức nhiều cuộc đi thiên nhiên, nhờ đó mà rèn luyện sức chịu đựng và làm quen với các kỹ năng nghiên cứu ngoài trời, điều đó rất có ích cho Đácuyn sau này. Vào thời kỳ này xu hướng ham thích trở thành một nhà tự nhiên học đã hình thành rõ rệt ở Đácuyn. Tác phẩm của nhà tự nhiên học Nga A.I. Ghecxen đã gây cho ông nguyện vọng tha thiết ìđược góp một viên đá nhỏ của mình vào việc xây dựng lâu đài tự nhiên học nguy nga”. Nhận đọc cuốn ìNhật ký hành trình” của A.Humbôntơ về Nam Mỹ và Trung Mỹ, Đácuyn đã ôm ấp mộng tưởng được tham dự những chuyến đi lớn. Chẳng bao lâu mộng tưởng đó đã được thành hiện thực.
2. Cuộc hành trình trên tàu BigơnNăm 1831, vừa mãn khóa trường Đại học Cambơrit, một sự kiện quan trọng nhất đời của Đácuyn đã làm ông chuyển hẳn hướng hoạt động mà không bao giờ trở thành linh mục nữa. Theo lời giới thiệu của giáo sư Henslô, Đácuyn được tham dự, với tư cách là một nhà tự nhiên học, vào chuyến đi vòng quanh thế giới trên tàu Bigơn. Cuộc hành trình của tàu Bigơn, do bộ Hàng hải nước Anh tổ chức, có 2 nhiệm vụ:
- Nghiên cứu tỉ mỉ bở biển phía Đông và phía Tây của Nam Mỹ, châu Úc và một số hòn đảo ở Thái bình dương, xây dựng bản đồ đường thủy.
- Góp phần đo chu vi quả đất (do đó cuộc hành trình được tiến hành theo đường vòng tròn)
Tàu BigơnChuyến đi này không phải chỉ có mục đích hoàn toàn khoa học. Thực ra mục đích căn bản là mục đích kinh tế, chính trị. Hồi đó nước Anh đang mưu toan xâm chiếm thị trường Nam Mỹ để đầu tư vào các nước ở đó. Nhưng Đácuyn không hề biết mục đích chính trị ìcao xa” này mà chỉ hình dung rằng chuyến đi này là một dịp rất tốt cho sự nghiệp khoa học tương lai của mình.
Ngày 27-12-1831 tàu nhổ neo, rời đất Anh, hướng tới bờ Nam Mỹ. Tháng 4-1832 tàu đi qua Riô Đơ Janêirô, tiếp đó qua Môngtêviđô và Buyênôt Airet, đi về phương Nam tới đảo Đất lửa rồi lại ngược về hướng Bắc, đến tháng 7-1833 thì tới Baia Bơlanca. Cuối năm 1833, tàu hoàn thành đợt khảo sát bở biển phía Đông Nam Mỹ, sau đó vòng qua đảo Đất lửa dọc theo bờ phía Tây của Nam Mỹ đi lên phía Bắc. Tháng 9-1835 tàu dừng lại giữa quần đảo Galapagôt, tiếp đó băng qua Thái bình dương tới Tân tây lan. Sau khi thăm châu Úc, đến đầu năm 1836 tàu vượt Ấn độ dương và Đại tây dương, tới Brêdin rồi trở lại đất nước Anh vào 2-9-1836. với tốc độ trung bình 13-15 km/giờ, với trọng tải 240 tấn, tàu Bigơn đã hoàn thành cuộc hành trình vòng quanh trái đất trong thời gian 5 năm.
Cuộc hành trình trên tàu Bigơn đã có tác dụng rất lớn đối với sự hình thành thế giới quan khoa học của Đácuyn. Trong các thời gian tàu đỗ lại lâu, Đácuyn đã đi sâu vào đất liền, tiến hành các khảo sát địa chất và sinh vật, khai quật các hóa thạch, thu nhập các mẫu khoáng vật và động vật thực vật tiêu biểu. Nhờ đó Đácuyn đã vũ trang cho mình một kho tài liệu khổng lồ về thiên nhiên ở nhiều địa vùng khác nhau. Các tài liệu thực tế đã làm cho Đácuyn nghi ngờ ìtính chất đúng đắn” của thần tạo luận đang chiếm ưu thế hồi bấy giờ, ngày càng tự giác tiến đến quan điểm tiến hóa. Về mặt này, cuốn ìNhững cơ sở của địa chất học” của Laien, mà Đácuyn mang theo và nghiên cứu rất kỹ trong cuộc hành trình, đã có ảnh hưởng quan trọng. Trong cuốn sách đó, ngay từ chương đầu, Laien đã đề cập tới vấn đề ìloài” mà sau này trở thành vấn đề cơ bản của Đácuyn. Quan điểm của Laien về sự biến đổi chậm chạp của các nhân tố địa chất đã được Đácuyn tán đồng khi nghiên cứu trên bờ biển Nam Mỹ và đã giúp Đácuyn hình thành ý niệm về sự tiến hóa của sinh vật.
Sau 5 năm đi trên tàu Bigơn, Đácuyn đã trưởng thành nhiều. Trước mắt ông, vấn đề ìnguồn gốc các loài” mở ra ngày càng rộng: quan sát sự sai khác của thực vật và động vât dọc bờ biển Nam Mỹ, nghiên cứu hóa thạch các loài đã diệt vong, nghiên cứu sự đa dạng của các loài ở quần đảo Galapagôt, tiếp xúc với thổ dân đảo Đất lửa, nghiên cứu đặc điểm thích nghi và mối quan hệ giữa các loài sinh vật... tất cả những điều đó dẫn Đácuyn tới quan niệm về sự phát triển lịch sử của sinh giới. Nếu khi ra đi Đácuyn chỉ là một người sưu tầm mẫu vật và là người đi săn thì khi trở về ông đã là một nhà tự nhiên học có tài, tự đề ra cho mình những vấn đề lớn và cố gắng giải quyết vấn đề đó trên quan điểm khoa học.
Bản đồ cuộc hành trình của Đác-uyn3. Các tác phẩm chính. Sự hình thành tiến hóa luận của ĐácuynVừa mới trở về, Đácuyn bắt tay ngay vào việc sắp xếp các tài liệu đã thu thập được. Trước hết ông cho xuất bản cuốn ìNhật ký của cuộc hành trình trên tàu Bigơn” (1839) rất được hoan nghênh và được dịch ra nhiều thứ tiếng. Tiếp đó ông làm chủ biên cuốn ìCác nghiên cứu về động vật trong chuyến đi trên tàu Bigơn” gồm 5 tập (1839-1843).
Ngay từ tháng 6-1837 Đácuyn bắt đầu ghi chép những ý kiến của mình về sự tiến hóa của sinh vật. Trong bản phác thảo năm 1837-1838 đã thấy khá rõ những yếu tố cơ bản của học thuyết tiến hóa. Trước hết Đácuyn đề cập vấn đề biến dị của sinh vật, sự liên quan giữa quá trình biến đổi của sinh vật, với quá trình hình thành các đặc điểm thích nghi. Đácuyn cũng đã nêu lên sự đào thải các dạng kém thích nghi và sự tồn tại của các dạng thích nghi. Những ý kiến này đã gợi lên vấn đề nguyên nhân tiến hóa.
Vào thời gian này, ngành chọn giống của nước Anh đã đạt những thành tựu lớn. Thực tiễn đó giúp Đácuyn nhanh chóng đi đến cách giải thích nguồn gốc các dạng vật nuôi cây trồng bằng tác dụng của chọn lọc nhân tạo. Ông đã đặc biệt chú ý đến các tác phẩm về sản xuất nông nghiệp, liên hệ chặt chẽ với các nhà chăn nuôi trồng trọt để tích lũy tài liệu.
Năm 1939, nhân đọc cuốn ìBàn về dân số” của Mantuxơ, lúc đó rất phổ biến ở Anh, Đácuyn đã hình dung ra nguyên nhân của sự đấu tranh sinh tồn mà ông có dịp quan sát trong thực tiễn thiên nhiên ở Nam Mỹ. Chính do ảnh hưởng của Mantuxơ mà sau này Đácuyn đã có những sai lầm trong quan niệm đấu tranh sinh tồn. Đácuyn cho rằng với lý luận đấu tranh sinh tồn có thể giải thích nguyên nhân của quá trình chọn lọc trong tự nhiên, và thuyết chọn lọc tự nhiên có thể giải thích thành công tính thích nghi của sinh vật với điều kiện sống. Đến năm 1939, Đácuyn đã xác định xong những nét cơ bản của thuyết tiến hóa, bản thảo năm 1842 có 35 trang, đến năm 1844 có 230 trang. Ông đã nghiên cứu tỉ mỉ về biến dị, di truyền và chọn lọc tự nhiên. Ông đã trình bày rằng trong chăn nuôi trồng trọt quá trình chọn lọc tiến hành do nhu cầu của người còn trong tự nhiên quá trình chọn lọc là do cuộc đấu tranh sinh tồn. Trong bản thảo lần này ông cũng đã trình bày các bằng chứng của quá trình tiến hóa.
Tới năm 1856, Đácuyn đã tìm ra mọi khâu trong các quy luật cơ bản về sự phát triển lịch sử của sinh giới và theo lời khuyên của Laien, Đácuyn khởi công viết cuốn ìNguồn gốc các loài”. Công trình đó làm được ngót một nửa thì ngày 18-6-1858 Đácuyn nhận được của Alphơrêt Oalêxơ – một nhà động vật học và một nhà du lịch người Anh - một bài báo nhan đề ìVề khuynh hướng của các thứ ngày càng khác xa loại hình đầu tiên”. Thời gian này, Oalêxơ cũng nêu những ý kiến về đấu tranh sinh tồn, chọn lọc tự nhiên đặc biệt quan trọng, đấu tranh sinh tồn của Oalêxơ cũng chịu ảnh hưởng của Mantuxơ. Tuy nhiên tài liệu của Oalêxơ còn thiếu những bằng chứng thực tế phong phú và không có sự phân tích sâu sắc mối quan hệ giữa chọn lọc tự nhiên với chọn lọc nhân tạo như ở Đácuyn. Hai người bạn của Đácuyn là Laien và nhà thực vật học Hucơ được biết Đácuyn đã nghiên cứu thuyết tiến hóa từ non 20 năm nay nên đề nghị Đácuyn công bố cùng một lần với Oalêxơ. Ngày 1-6-1858, cả hai tài liệu đã được trình bày trước hội khoa học Linnê ở Luân đôn và sau đó đều cung đăng một lần trong tạp chí của hội số tháng 8-1858. Người ta xác nhận cả 2 tác giả đã độc lập đi tới những quan niệm giống nhau. Chính Oalêxơ cũng thừa nhận vai trò tiên phong của Đácuyn trong việc nghiên cứu thuyết tiến hóa và ưu thế của học thuyết Đácuyn.
Sau đó, theo lời khuyên của Laien, Đácuyn viết lại bản thảo, tóm tắt hơn, và sau ngót 14 tháng làm việc khẩn trương, tác phẩm lịch sử ìNguốn gốc các loài do chon lọc tự nhiên hay là sự bảo tồn các nòi thích nghi trong đấu tranh sinh tồn” được xuất bản với 1250 cuốn, ngày 24-11-1859 tức là 23 năm sau khi kết thúc cuộc hành trình trên tàu Bigơn. Chỉ trong một ngày sách đã bán hết, đến tháng 1-1860 đã tái bản với số lượng 3000 cuốn. Trong đời tác giả, tác phẩm đó được tái bản 4 lần và chỉ sau một thời gian ngắn, được ra hầu hểt các thứ tiếng ở châu Âu, gây ra một tiếng vang khắp thế giới.
Sau đó Đácuyn tiếp tục viết một số sách nữa để phát triển học thuyết mà ông đã trình bày tóm tắt trong ìNguồn gốc các loài”. Năm 1868 xuất bản cuốn ìSự biến đổi của vật nuôi và cây trồng”, năm 1872 xuât bản cuốn ìNguồn gốc loài người và chọn lọc giới tính”. Sau 3 tác phẩm quan trọng này, Đácuyn quay về nghiên cứu những vấn đề về sinh lý thực vật cốt để chứng minh sự tiến hóa và thích nghi của sinh vật. Lần lượt ông đã cho xuất bản các tác phẩm: ìNhững kiểu thích nghi của các loài lan đối với sự thụ phần nhờ sâu bọ” (1862), ìTác dụng của thụ phấn chéo và tự thụ phấn trong giới thực vật” (1876), ìVề những dạng hoa khác nhau trong các cây thuộc cùng một loài (1877), ìCử động và tập quán của các cây leo” (1865), ìKhả năng cử động ở thực vật” (1880), ìThực vật ăn sâu bọ” (1875), ìVai trò của giun trong sự hình thành đất trồng trọt” (1881), ìSự biểu hiện cảm xúc ở người và động vật” (1882).
Toàn bộ các tác phẩm của Đácuyn là một cống hiến lớn cho tư tưởng tiến hóa. Đácuyn đã cung cấp những bằng chứng phong phú và hùng hồn cho thuyết tiến hóa, đã giải thích quá trình phát triển lịch sử của sinh giới bằng những quy luật khác: biến dị, di truyền và chọn lọc.
4. Đácuyn một nhà khoa học vĩ đạiĐácuyn đã đem lại một chuyển biến lớn trong sinh học là do sự thúc đẩy của đà phát triển của xã hội, do thực tiễn chăn nuôi trồng trọt ở nước Anh lúc đó, do sự tích lũy của nhiều thành tựu mới trong khoa học, do được kế thừa những đóng góp cho tư tưởng tiến hóa trước ông, nhưng một phàn không nhỏ là do đức tính và tài năng của ông.
Một nét đặc biệt trong tài năng của Đácuyn là biết cách nhìn các sự kiện thiên nhiên trong mối liên hệ giữa chúng với nhau, vừa biết phân tích các hiện tượng một cách sâu sắc, vừa có óc tổng hợp tài tình tìm ra những mối quan hệ giữa các hiện tượng rời rạc và đặt chúng vào trong một tổng thể thống nhất.
Một nét đặc sắt khác của Đácuyn là cách nhìn thiên nhiên với con mắt sâu sắc, thấu suốt, biết chú ý tới những hiện tượng nhỏ nhặt. Thường thì những người quan sát dù là say sưa nhiệt tình, cũng chỉ chú ý tới những gì có liên quan trực tiếp với mục đích nghiên cứu của mình. Đácuyn nhìn tới cả những chi tiết nhỏ khác, biết dùng những chi tiết đó làm khởi điểm cho một vấn đề mới.
Đácuyn không bao giờ chịu gò bó trong những quan niệm đương thời. Lúc nào gặp những sự kiện mâu thuẫn với mình thì Đácuyn lật ngược vấn đề và mở ra một hướng mới. Ngay từ năm 1831, Đácuyn đã sẵn sàng đập lại những lý thuyết cũ không phù hơp với các sự kiện thực tế. Trong thời gian đi vòng quanh thế giới, Đácuyn đã bắt đầu cuộc đấu tranh dũng cảm chống thần tạo luận, tìm ra một con đường độc đáo cho việc giải thích lịch sử phát triển của sinh giới.
Công trình to lớn của Đácuyn trong khoa học đã nói lên tinh thần lao động rất cao của ông. Ngay từ những năm đi học, Đácuyn đã nổi lên rõ rệt bởi tinh thần hăng say bền bỉ làm việc. Trong nhật lý, Đácuyn đã viết: ìMỗi lần tìm hiểu được một vấn đề gì phức tạp thì cảm giác thích thú lại đến với tôi”. Suốt 5 năm trong cuộc hành trình trên tàu Bigơn, Đácuyn đã phải sống và làm việc trong điều kiện rất chật vật. Ăn ở chật chội, làm việc ở một cái bàn hẹp, phía trên có mắc võng ngủ. Thế nhưng Đácuyn làm việc rất có nghị lực, luôn luôn vui tính, nụ cười trong sáng, câu chuyện cởi mở, làm cho mọi người mến phục và dễ gần. Về sau, có những công trình kéo dài trong nhiều năm vẫn được ông kiên nhẫn làm đến cùng. Ví dụ ông đã bỏ ra 8 năm ròng cho việc phân loại lớp Chân tơ (Cirripeda) mặc dù việc đó không lấy gì làm thích thú lắm.
Tinh thần yêu lao đông được gắn liền với phương pháp làm việc có kế hoạch. Đácuyn không bao giờ làm việc thất thường, với những tốc độ không đều và không hề bỏ phí những thì giờ nghỉ ngơi vô ích. Trong mọi công việc ông đều có tính rõ ràng. Đácuyn không bao giờ làm trái với lương tâm, dù là trong việc đáng giá những thành tựu của chính mình hoặc phê phán những sai lầm của bản thân mình. Không có sự trung thực cao độ đó trong khoa học thì tài năng thường không đưa lại sự thành công. Nếu như Đácuyn luôn luôn nghe ngóng những lời phê phán và chính mình cũng tự phê phán nghiêm khắc hơn bất cứ ai thì mặt khác Đácuyn cũng luôn luôn dũng cảm đấu tranh bảo vệ học thuyết của mình.
Quan điểm của Đácuyn về giới tự nhiên về giới tự nhiên nói chúng, về sự tiến hóa của sinh vật nói riêng là duy vật. Về thực chất, học thuyết của Đácuyn là vô thần, chống tôn giáo, là vũ khí tư tưởng của lực lượng cách mạng. Đácuyn, dù muốn hay không, đã là một nhà cách mạng trong sinh học. Để nêu bật thực chất cách mạng trong học thuyết của Đácuyn, đồng thời để nêu rõ những thiếu sót, tồn tại trong đó phải cần đến sự phân tích, phê phán của Mác, Ăngghen, những lãnh tụ của giai cấp vô sản.
5. Những này cuối cùngVới cống hiến to lớn cho sinh học, với học thuyết cách mạng của mình, mặc dù bị công kích ít nhiều, trước hết là do giáo hội và những học giả duy tâm, nhưng nói chung Đácuyn được trọng vọng, danh tiếng ông lừng lẫy. Năm 1864 ông được huân chương Côpơlây. Ông được mời làm thành viên của nhiều viện khoa học, viện sĩ của nhiều viện Hàn lâm, Đácuyn là một trong những nhà bác học có may mắn được thấy học thuyết của mình được công nhận ngay từ khi còn sống.
Từ năm 1879 sức khỏe của Đácuyn giảm sút, đặc biệt từ năm 1882 ông đã rất yếu. Ngày 7-3-1882, Đácuyn còn dạo chơi lần cuối cùng trong vườn. Ngày 17-4 ông còn cố gắng ghi nhận xét về kết quả của một thí nghiệm. Ngày 18-4 ông đã rất mệt nhưng vẫn còn nói: ìTôi không sợ chết đâu!”. Cuối cùng ngày 19-4-1882, Đácuyn đã tắt thở hồi 4 giờ chiều, thọ 73 tuổi. Thi hài của ông được chôn cất tại nghĩa trang Oetzminstơ, bên cạnh mộ Niutơn.
(Trích từ sách
Học thuyết tiến hóa của tác giả Trần Bá Hoành, NXB GD 1979)
Bài viết đã được chỉnh sửa nội dung bởi thuongnho119: 06-02-2005 - 13:24