Đến nội dung

Hình ảnh

Những hình dạng của không gian

- - - - -

  • Please log in to reply
Chủ đề này có 176 trả lời

#61
tritanngo99

tritanngo99

    Đại úy

  • Điều hành viên THPT
  • 1644 Bài viết
LƯỢC SỬ THỜI GIAN
(A Brief History of Time)
Tác Giả:-Steven Hawking - Dịch Giả:-Thích Viên Lý
Viện Triết Lý Việt NamTriết Học Thế Giới, USA


CHƯƠNG 6
HỐ ĐEN

Thuật ngữ "hố đen" (black hole) xuất hiện cách đây không lâu. Nó được khoa học gia người Mỹ John Wheeler đặt ra năm 1969 để miêu tả hình ảnh về một ý tưởng đã có ít nhất là hai trăm năm trước đó, vào thời có hai lý thuyết về ánh sáng: một lý thuyết – mà Newton tin tưởng – cho rằng ánh sáng là do các hạt tạo thành; một lý thuyết khác cho rằng ánh sáng do các sóng tạo thành. Ngày nay chúng ta biết rằng thật sự cả hai lý thuyết đều đúng. Theo lưỡng tính sóng/hạt của cơ học lượng tử, ánh sáng có thể vừa được coi là sóng vừa là hạt. Với thuyết nói rằng ánh sáng được tạo bởi các sóng thì người ta không rõ nó phản ứng với hấp lực như thế nào. Nhưng nếu ánh sáng tạo bởi các hạt thì người ta có thể dự liệu nó bị ảnh hưởng bởi hấp lực giống như những viên đạn súng đại bác, những hỏa tiễn, và những hành tinh. Lúc đầu người ta cho rằng các hạt của ánh sáng di chuyển với tốc độ nhanh vô tận, do đó hấp lực không thể khiến nó đi chậm lại; nhưng khám phá của Roemer rằng ánh sáng di chuyển với một tốc độ giới hạn có nghĩa là hấp lực phải có một ảnh hưởng quan trọng.

Năm 1783, John Michell, một giáo sư Đại Học Cambridge, dựa trên giả thuyết này để viết một luận văn đăng trong tập san Philosophical Transactions of the Royal Society of London (Những Trao Đổi Triết Học của Học Hội Hoàng Gia Luân Đôn), trong đó ông vạch ra rằng một ngôi sao có chất lượng đủ lớn và đủ chặt chẽ sẽ có một trường hấp lực mạnh đến nỗi ánh sáng không thể thoát ra được: bất cứ luồng ánh sáng nào phát ra từ bề mặt của ngôi sao đó sẽ bị hấp lực của nó kéo lui trước khi ánh sáng có thể đi xa. Michell cho rằng có một số lớn những ngôi sao loại đó. Tuy chúng ta không thể nhìn thấy chúng, vì ánh sáng từ chúng chiếu ra không thể đi tới trái đất, nhưng chúng ta vẫn có thể cảm thấy hấp lực của chúng. Những vật thể như vậy được gọi là "hố đen," vì chữ này mô tả đúng: những khoảng trống đen trong không gian. Mấy năm sau, khoa học gia Pháp Hầu Tước de Laplace cũng nêu ra ý kiến tương tự, có vẻ không dính dáng tới Michell. Có điều thú vị là Laplace chỉ đem ý kiến này vào ấn bản thứ nhất và thứ nhì của cuốn sách The System of the World, và gạt nó đi trong những ấn bản sau này; có lẽ ông nghĩ rằng đó là một ý tưởng điên rồ. (Vả lại, thuyết coi ánh sáng do hạt tạo nên đã trở thành thất sủng trong thế kỷ 19; có vẻ như mọi sự đều có thể giải thích bằng thuyết luồng sóng, và theo thuyết luồng sóng, người ta không biết rõ nó có chịu ảnh hưởng của hấp lực hay không.)

Thật ra, bởi vì vận tốc của ánh sáng là cố định, nếu coi nó giống như những viên đạn đại bác thì không phù hợp. (Một viên đạn đại bác bắn lên không trung từ mặt đất sẽ bị hấp lực khiến nó đi chậm lại, rồi cuối cùng nó ngừng lại và rơi xuống mặt đất; nhưng một quang tử (photon) thì phải tiếp tục phóng lên không trung với một vận tốc cố định. Vậy thì hấp lực kiểu Newton có thể ảnh hưởng tới ánh sáng như thế nào?) Mãi cho tới khi Einstein đề ra thuyết tương đối tổng quát năm 1915 thì người ta mới có một lý thuyết nhất quán về vấn đề hấp lực ảnh hưởng đối với ánh sáng như thế nào. Và thậm chí tới lúc đó cũng vẫn còn phải chờ một thời gian dài người ta mới hiểu những hàm ý của thuyết đó đối với những ngôi sao có chất lượng lớn lao.

Để hiểu một hố đen làm thế nào hình thành, trước tiên chúng ta cần phải hiểu chu kỳ đời sống của một ngôi sao. Một ngôi sao được hình thành khi một lượng khí (phần lớn là khinh khí) lớn lao bắt đầu bị hấp lực tự thân khiến nó co rút lại. Trong khi co rút, các nguyên tử ở thể khí đụng chạm vào nhau càng lúc càng thường xuyên hơn và với vận tốc càng nhanh hơn – lúc đó chất khí nóng lên. Sau cùng, chất khí sẽ nóng tới độ khi các nguyên tử khinh khí đụng nhau chúng không còn nẩy ra nữa, mà trái lại chúng kết hợp với nhau để trở thành những nguyên tử helium. Sức nóng phát ra từ phản ứng này – giống như một vụ nổ bom khinh khí có kiểm soát – là điều khiến cho ngôi sao chiếu sáng. Sức nóng gia tăng này cũng làm tăng thêm sức ép của chất khí cho tới khi nó đủ mạnh để quân bình với hấp lực, và chất khí ngừng co rút. Điều này gần giống như một cái bong bóng: Có sự quân bình giữa sức ép của không khí bên trong quả bóng (sức này cố gắng làm cho quả bóng phồng lớn hơn), và sức căng của cao-su (sức này cố gắng làm cho quả bóng nhỏ hơn). Các ngôi sao sẽ ở tình trạng ổn dịnh như vậy torng một thời gian lâu dài, khi sức nóng từ những phản ứng hạt nhân quân bình với hấp lực. Nhưng cuối cùng ngôi sao sẽ đốt hết khinh khí và các nhiên liệu hạt nhân khác. Một điều nghịch lý là một ngôi sao khởi sự với khối lượng nhiên liệu càng cao thì nó lại càng mau hết nhiên liệu. Điều này là vì khi ngôi sao càng có khối lượng lớn thì nó càng cần phải nóng hơn để có thể quân bình với hấp lực của nó. Và khi càng nóng thì nó càng mau đốt hết nhiên liệu. Mặt trời của chúng ta có đủ nhiên liệu cho khoảng năm ngàn triệu năm nữa, nhưng các ngôi sao có khối lượng lớn hơn mặt trời có thể đốt hết nhiên liệu chỉ trong khoảng một trăm triệu năm, thật là quá ngắn ngủi so với tuổi của vũ trụ. Khi một ngôi sao đốt hết nhiên liệu, nó bắt đầu nguội dần và do đó nó co rút lại. Chỉ mãi tới cuối thập niên 1920 người ta mới hiểu điều gì sẽ xẩy ra cho một ngôi sao ở giai đoạn đó.

Năm 1928, một sinh viên bậc cử nhân người Ấn Độ, Subrahmanyan Chandrasekhar, đi tầu thủy sang Anh Quốc để theo học tại Đại Học Cambridge với nhà thiên văn Anh Sir Arthur Eddington, một chuyên gia về thuyết tương đối tổng quát. (Theo người ta thuật lại, trong đầu thập niên 1920 một ký giả bảo Eddington rằng ông ta nghe nói trên thế giới chỉ có ba người hiểu được tương đối luận tổng quát. Eddington ngẫm nghĩ một lát rồi trả lời: "Tôi đang cố gắng nghĩ xem người thứ ba là ai.") Trong cuộc hành trình từ Ấn Độ, Chandrasekhar tìm hiểu xem một ngôi sao có thể lớn tới mức nào mà vẫn còn tự chống đỡ đối với hấp lực của chính nó, sau khi đã đốt hết nhiên liệu. Sự thể như thế này: Khi ngôi sao trở thành nhỏ, những hạt vật chất sáp lại rất gần nhau, và theo nguyên tắc loại trừ của Pauli thì chúng phải có những vận tốc rất khác nhau. Điều này khiến chúng di chuyển xa rời nhau và do đó khiến cho ngôi sao bành trướng. Vì vậy một ngôi sao có thể tự duy trì ở một bán kính cố định nhờ sự quân bình giữa hấp lực và sức đẩy phát xuất từ nguyên tắc loại trừ, cũng giống như thời kỳ đầu sau khi hình thành hấp lực được quân bình bởi sức nóng.

Tuy nhiên, Chandrasekhar nhận thấy có một giới hạn đối với sức đẩy mà nguyên tắc loại trừ có thể cung cấp. Theo thuyết tương đối thì sự khác biệt tối đa trong vận tốc của những hạt vật chất trong ngôi sao chỉ có giới hạn, đó là vận tốc của ánh sáng. Điều này có nghĩa rằng khi ngôi sao có tỷ trọng đủ nặng thì sức đẩy do nguyên tắc loại trừ sẽ yếu hơn hấp lực. Chandrasekhar tính toán rằng một ngôi sao nguội có khối lượng lớn hơn 1.5 khối lượng mặt trời thì nó sẽ không thể chống đỡ với trọng lực của chính nó. (Khối lượng này ngày nay được coi là "giới hạn Chandrasekhar"). Một khám phá tương tự cũng đã được khoa học gia Nga Lev Davidovich Landau tìm ra vào khoảng cùng một thời gian với Chandrasekhar.

Điều này có những hàm ý quan trọng đối với số phận tối hậu của những ngôi sao có khối lượng lớn. Nếu một ngôi sao có khối lượng nhỏ hơn giới hạn Chandrasekhar, nó có thể ngừng co rút rồi cuối cùng có thể trở thành một "bạch tiểu tinh" ("white dwarf") với bán kính vài ngàn dặm và mật độ nặng hàng trăm tấn mỗi phân khối Anh. Một bạch tiểu tinh được chống đỡ bởi sức đẩy, theo nguyên tắc loại trừ, giữa các điện tử trong vật chất của nó. Chúng ta quan sát được một số lớn những ngôi sao thuộc loại bạch tiểu tinh này. Một trong những khám phá đầu tiên là một ngôi sao quay xung quanh sao Sirius (sao Thiên Lang) – ngôi sao sáng nhất trong bầu trời ban đêm.

Landau vạch ra rằng còn có một trạng thái chung cuộc có thể xẩy ra cho một ngôi sao cũng có khối lượng giới hạn vào khoảng một hay hai lần khối lượng mặt trời nhưng nhỏ hơn cả một bạch tiểu tinh. Những ngôi sao này sẽ được chống đỡ sức đẩy theo nguyên tắc loại trừ giữa các trung hòa tử và các proton, thay vì giữa các điện tử. Vì vậy chúng được gọi là "trung tử tinh" (neutron star). Chúng có bán kính chỉ vào khoảng mười dặm và có mật độ hàng trăm triệu tấn mỗi phân khối Anh. Khi các khoa học gia lần đầu ước đoán sự hiện hữu của trung tử tinh thì họ không có cách nào để quan sát chúng. Mãi về sau này người ta mới có thể dò tìm ra chúng.

Mặt khác, những ngôi sao có khối lượng cao hơn giới hạn Chandrasekhar gặp phải một vấn đề lớn khi chúng tiêu thụ gần hết nhiên liệu. Trong một số trường hợp chúng có thể bùng nổ hoặc xoay xở để liệng bỏ bớt vật chất để giảm bớt khối lượng xuống dưới mức giới hạn và nhờ vậy chúng tránh khỏi bị trọng lực làm sụp đổ, nhưng khó có thể tin rằng điều này luôn luôn xẩy ra, dù ngôi sao lớn tới mức nào. Làm sao ngôi sao biết được rằng nó cần phải mất bớt sức nặng? Dù nếu mỗi ngôi sao đều xoay xở để mất bớt khối lượng hầu tránh xụp đổ, điều gì sẽ xẩy ra nếu bạn bồi thêm khối lượng vào một bạch tiểu tinh hoặc một trung tử tinh để khiến nó nặng hơn giới hạn Chandrasekhar? Liệu nó có co sụp tới mật độ vô hạn không? Hàm ý này đã khiến cho Eddington sửng sốt, và ông không tin vào kết quả của Chandrasekhar. Eddington cho rằng một ngôi sao không thể nào co sụp thành một cái chấm.

Đây là quan điểm của đa số khoa học gia: Chính Einstein đã viết một luận văn trong đó ông nói rằng các ngôi sao không thể nào co rút thành số không. Sự chống đối của các khoa học gia khác, nhất là từ Eddington, vị thầy cũ của ông, khiến cho Chandrasekhar từ bỏ con đường nghiên cứu đó và quay sang nghiên cứu những vấn đề thiên văn khác , như sự chuyển động của các chùm sao. Tuy nhiên, khi ông được tặng giải Nobel năm 1983 thì ít nhất cũng phần nào dành cho công việc nghiên cứu lúc trước về khối lượng giới hạn của các ngôi sao nguội.

Chandrasekhar đã cho thấy rằng nguyên tắc loại trừ không thể chận đứng sự co sụp của một ngôi sao có khối lượng lớn hơn giới hạn Chandrasekhar, nhưng căn cứ vào thuyết tương đối tổng quát thì điều gì sẽ xẩy ra cho một ngôi sao như vậy? Vấn đề này được một khoa học gia Mỹ trẻ tuổi là Robert Openheimer lý giải lần đầu năm 1939. Tuy nhiên, kết quả của ông ngụ ý rằng vào thời đó không có viễn vọng kính nào có thể quan sát được những hệ quả của những ngôi sao loại đó. Tới khi xẩy ra Đệ Nhị Thế Chiến, Openheimer bận rộn với chương trình nghiên cứu bom nguyên tử. Sau chiến tranh vấn đề co sụp vì hấp lực của các ngôi sao đã bị bỏ quên, vì đa số các khoa học gia bị thu hút bởi những vấn đề thuộc địa hạt nguyên tử và hạch tâm của nó. Tuy nhiên, trong thập niên 1960, sự quan tâm về những vấn đề vĩ mô của thiên văn học và vũ trụ luận đã được làm hồi sinh bởi một số lớn những quan sát thiên văn nhờ áp dụng những kỹ thuật tân tiến. Tới lúc đó, khảo cứu của Openheimer được nhiều người tái khám phá và khai triển thêm.

Bức tranh từ công cuộc khảo cứu của Openheimer mà ngày nay chúng ta có là như sau: Trường hấp lực của ngôi sao làm thay đổi những đường đi của các tia sáng trong không-thời gian, so với những con đườngđáng lẽ chúng đi nếu không có sự hiện diện của ngôi sao đó. Những hình nón ánh sáng – cho thấy những đường đi trong không gianthời gian nhờ những tia sáng phát ra từ đỉnh hình nón – bị uốn cong vào phía trong gần bề mặt của ngôi sao. Điều này có thể nhận thấy qua hiện tượng ánh sáng uốn cong khi phát ra từ những ngôi sao ở xa mà chúng ta quan sát trong khi có nhật thực. Khi ngôi sao co rút, trường hấp lực tại bề mặt của nó trở thành mạnh hơn và những hình nón ánh sáng bị uốn cong nhiều hơn vào phía trong. Điều này khiến cho ánh sáng từ ngôi sao càng khó thoát ra từ ngôi sao, và ánh sáng có vẻ mờ hơn và đỏ hơn đối với một quan sát viên từ xa. Sau cùng khi ngôi sao đã co rút tới một bán kính giới hạn nào đó, trường hấp lực tại bề mặt trở thành mạnh đến nỗi những hình nón ánh sáng bị uốn cong vào phía trong nhiều tới độ ánh sáng không còn có thể thoát ra được (H. 6.1). Theo thuyết tương đối, không có cái gì có thể đi nhanh hơn ánh sáng. Do đó, nếu ánh sáng không thể thoát ra thì không một cái gì khác có thể thoát ra; mọi thứ đều bị trường hấp lực kéo ngược trở lại. Vì vậy chúng ta có một tập hợp những biến cố, một vùng của không-thời gian, từ nơi đó ánh sáng hoặc bất cứ vật gì đều không thể thoát ra để đạt tới người quan sát từ xa. Cái vùng này bây giờ chúng ta gọi là một hố đen. Ranh giới của nó được gọi là chân trời biến cố và nó trùng hợp với những đường đi của các tia sáng không thể thoát ra khỏi hố đen.

Để hiểu bạn sẽ trông thấy những gì nếu bạn có thể quan sát một ngôi sao co rút để tạo thành một hố đen, bạn cần phải nhớ rằng trong thuyết tương đối không có thời gian tuyệt đối. Mỗi quan sát viên có sự đo lường thời gian riêng của họ. Thời gian của một một người nào đó trên một ngôi sao sẽ khác với thời gian của một người ở cách xa ngôi sao, do ảnh hưởng trường hấp lực của ngôi sao. Giả thử có một phi hành gia liều lĩnh đứng trên bề mặt ngôi sao đang co rút, và người này cũng di chuyển theo sự co rút vào phía trong cùng với ngôi sao. Phi hành gia này gửi đi một tín hiệu bằng tia sáng mỗi giây đồng hồ – căn cứ vào chiếc đồng hồ đeo tay của ông ta – cho chiếc phi thuyền của ông đang bay xung quanh ngôi sao. Ở thời điểm nào đó trên chiếc đồng hồ, chẳng hạn đúng 11:00 giờ, ngôi sao sẽ co rút tới dưới bán kính giới hạn – nơi mà trường hấp lực trở thành mạnh đến nỗi không một vật gì có thể thoát ra – và tín hiệu của ông không thể đạt tới phi thuyền. Khi gần tới 11:00 giờ các bạn của ông trên phi thuyền nhìn xuống sẽ thấy những khoảng cách thời gian giữa những tín hiệu phát xuất từ phi hành gia dưới ngôi sao càng lúc càng dài hơn, nhưng hiệu ứng này trước 10 giờ 59 phút 59 giây rất nhỏ. Họ chỉ cần chờ lâu hơn một giây một chút giữa hai tín hiệu của phi hành gia gửi đi lúc 10:59:58 và lúc 10:59:59, theo đồng hồ của ông; nhưng họ sẽ phải chờ đợi thời gian vô hạn cho tín hiệu gửi đi lúc 11:00 giờ. Những sóng ánh sáng phát ra từ bề mặt ngôi sao giữa lúc 10:59:59 và 11:00 giờ, theo đồng hồ của phi hành gia, sẽ lan rộng trên một khoảng thời gian vô hạn, như được nhìn thấy từ phi thuyền. Khoảng cách thời gian giữa lúc phi thuyền nhận được hai tín hiệu liên tiếp sẽ càng lúc càng dài hơn, vì vậy ánh sáng từ ngôi sao càng lúc càng thấy đỏ hơn và mờ hơn. Sau cùng, ngôi sau trở thành tối đến nỗi những người trên phi thuyền không còn có thể trông thấy nó nữa: tất cả những gì còn lại chỉ là một hố đen trong không gian. Tuy nhiên, ngôi sao đó tiếp tục gây ra một hấp lực như cũ đối với phi thuyền, trong khi nó tiếp tục bay quanh hố đen.

Nhưng diễn tiến này không hoàn toàn hiện thực, vì có những vấn đề sau đây. Hấp lực càng yếu hơn khi một vật càng cách xa ngôi sao hơn, vì vậy hấp lực trên hai chân của phi hành gia liều lĩnh luôn luôn mạnh hơn hấp lực trên đầu ông. Sự khác biệt về hấp lực này sẽ kéo dài nhà phi hành của chúng ta giống như sợi bún hoặc xé ông ra từng mảnh trước khi ngôi sao co rút tới bán kính giới hạn, nơi mà chân trời biến cố thành hình! Tuy nhiên, người ta tin rằng có những thiên thể rất lớn hơn thế trong vũ trụ – như những vùng trung tâm của các thiên hà – cũng có thể trải qua sự co rút hấp lực để tạo thành những hố đen; một phi hành gia trên những thiên thể đó sẽ không bị xé từng mảnh trước khi hố đen thành hình. Thật ra, phi hành gia sẽ không cảm thấy điều gì đặc biệt khi ông đạt tới bán kính giới hạn, và có thể vượt qua điểm bất phản hồi mà không nhận thấy gì khác thường. Tuy nhiên, chỉ trong vài giờ đồng hồ, khi vùng đó tiếp tục co rút, sự khác biệt về hấp lực trên đầu và trên chân ông sẽ trở thành mạnh đến nỗi nó lại xé ông thành từng mảnh.

Cuộc nghiên cứu mà Roger Penrose và tôi đã thi hành giữa năm 1965 và năm 1970 cho thấy rằng theo thuyết tương đối tổng quát thì trong hố đen phải có một điểm kỳ dị (singularity) có mật độ vô hạn và độ cong không-thời gian vô hạn. Điều này giống như vụ nổ lớn khi bắt đầu có thời gian, nhưng đây là sự tận cùng của thời gian đối với thiên thể co sụp và phi hành gia. Ở điểm kỳ dị này những định luật khoa học và khả năng dự đoán tương lai của chúng ta sẽ mất hiệu quả. Tuy nhiên, bất cứ quan sát viên nào ở ngoài hố đen sẽ vẫn còn có thể dự đoán được, bởi vì ánh sáng và bất cứ tín hiệu nào khác vẫn còn đạt tới ông từ điểm kỳ dị.

Sự kiện đáng kể này khiến Roger Penrose đề xuất giả thuyết "vũ trụ kiểm duyệt" mà chúng ta có thể nói là "Thượng Đế rất ghét một điểm kỳ dị trần truồng." Nói cách khác, những điểm kỳ dị do sự co sụp hấp lực tạo thành chỉ xẩy ra trong những nơi như các hố đen, nơi mà chúng được chân trời biến cố che đậy để bên ngoài khỏi nhìn thấy chúng. Nói cho đúng, điều sau đây được coi là "giả thuyết vũ trụ kiểm duyệt yếu": nó bảo vệ các quan sát viên ở bên ngoài hố đen khỏi chịu những hậu quả của sự mất hiệu lực dự đoán xẩy ra tại điểm kỳ dị, nhưng nó chẳng làm gì cả để giúp nhà phi hành xấu số bị rơi vào hố.

Có một số giải đáp của những phương trình thuộc thuyết tương đối tổng quát mà trong đó phi hành gia của chúng ta có thể nhìn thấy một điểm kỳ dị trần truồng: ông có thể tránh khỏi bị đụng vào điểm kỳ dị và rơi vào một "hố trùng" ("wormhole") và đi vào một vùng khác trong vũ trụ. Điều này sẽ cống hiến những khả thể lớn lao để du hành trong vũ trụ và trong thời gian, nhưng chẳng may những giải đáp này có vẻ không vững chắc; một xáo trộn nhỏ nhất, chẳng hạn như sự hiện diện của một phi hành gia, có thể làm chúng thay đổi và khiến cho phi hành gia không thể nhìn thấy điểm kỳ dị trước khi ông đụng vào nó và thời gian của ông ta chấm dứt. Nói cách khác, điểm kỳ dị luôn luôn nằm trong tương lai của ông ta và không bao giờ nằm trong quá khứ của ông ta. Theo lối giải thích của "giả thuyết vũ trụ kiểm duyệt mạnh" trong một giải đáp hiện thực, những điểm kỳ dị luôn luôn nằm hoàn toàn trong tương lai (như những điểm kỳ dị do sự co sụp hấp lực tạo thành) hoặc hoàn toàn trong quá khứ (như vụ nổ lớn). Người ta hy vọng rằng một trong những giả thuyết kiểm duyệt có thể đứng vững, vì gần tới những điểm kỳ dị phi hành gia có thể đi vào quá khứ. Đây là điều hứng thú đối với các nhà văn viết truyện khoa học giả tưởng, nhưng nó có nghĩa rằng cuộc đời của bất cứ ai cũng không bao giờ được an toàn: Một kẻ nào đó có thể đi vào quá khứ để giết cha hay mẹ bạn trước khi bạn được thụ thai!

Chân trời biến cốranh giới của vùng không-thời gian mà từ đó không có vật gì có thể thoát ra – xử sự giống như một cái màng một chiều vây phủ xung quanh hố đen: các vật thể, chẳng hạn như các phi hành gia bất cẩn, có thể rơi qua chân trời biến cố và lọt vào hố đen, nhưng không vật nào có thể thoát ra khỏi hố đen qua chân trời biến cố. (Hãy nhớ rằng chân trời biến cốcon đường trong không thời gian của ánh sáng cố gắng thoát ra khỏi hố đen, nhưng không có vật gì có thể đi nhanh hơn ánh sáng). Người ta có thể nói về chân trời biến cố giống như thi hào Dante nói về chuyện đi vào địa ngục: "Ai vào đây thì hết mọi hy vọng." Bất cứ vật gì hoặc bất cứ ai rơi qua chân trời biến cố sẽ mau chóng tiến vào vùng mật độ vô hạn và sự tận cùng của thời gian.

Thuyết tương đối tổng quát dự đoán rằng các vật nặng đang di chuyển sẽ phát ra những sóng hấp lực trong đường cong của không gian di chuyển ở vận tốc của ánh sáng. Những sóng hấp lực này giống như sóng ánh sáng, là những gợn sóng của điện-từ trường, nhưng người ta khó dò tìm ra chúng hơn. Giống như ánh sáng, chúng đem năng lượng ra khỏi những vật thể phát ra chúng. Vì vậy người ta trông đợi một hệ thống gồm những thiên thể có khối lượng lớn cuối cùng sẽ ngừng lại ở một nơi, vì năng lượng trong bất cứ sự chuyển động nào sẽ bị những sóng hấp lực lấy đi khi chúng phát xuất. (Gần giống như liệng một cái nút chai bằng vỏ cây xuống nước: lúc đầu nó trồi lên ngụp xuống nhiều lần, nhưng vì các gợn sóng lấy đi năng lượng của nó, cuối cùng cái nút chai đứng im một chỗ). Thí dụ sự chuyển động của trái đất trên quỹ đạo của nó xung quanh mặt trời tạo nên những sóng hấp lực. Ảnh hưởng của sự thất thoát năng lượng sẽ làm thay đổi quỹ đạo của trái đất khiến nó dần dần xáp lại gần mặt trời hơn, cuối cùng sẽ đụng vào mặt trời và đứng im. Mức năng lượng bị thất thoát trong trường hợp của trái đất và mặt trời rất thấp – chỉ đủ để chạy một cái máy sưởi điện nhỏ bé. Điều này có nghĩa là phải tới một ngàn triệu triệu triệu triệu năm nữa thì trái đất mới đụng vào mặt trời, vì vậy bây giờ chẳng có gì phải lo về chuyện này! Sự thay đổi nơi quỹ đạo của trái đất quá chậm để có thể quan sát được, nhưng loại hiệu ứng này trong mấy năm qua đã được các nhà thiên văn nhận thấy xẩy ra trong hệ thống thiên thể gọi là PSR 1913 + 16 (PSR là chữ viết tắt của "pulsar", một loại trung tử tinh đặc biệt phát ra những xung sóng vô tuyến đều đặn). Hệ thống này gồm có hai trung tử tinh quay xung quanh lẫn nhau, và năng lượng mà chúng thất thoát vì phát ra những sóng hấp lực đang khiến chúng xáp lại gần nhau theo đường xoáy trôn ốc.

Trong thời gian một ngôi sao co sụp vì hấp lực để trở thành một hố đen, những chuyển động của nó sẽ nhanh hơn nhiều, vì vậy tốc độ thất thoát năng lượng cũng cao hơn nhiều. Do đó, chẳng bao lâu sau nó sẽ đứng im. Trạng thái cuối cùng này sẽ như thế nào? Người ta có thể cho rằng nó sẽ tùy thuộc vào tất cả những đặc tính phức tạp của ngôi sao mà từ đó nó hình thành – không phải chỉ tùy thuộc vào khối lượng và tốc độ chuyển động mà còn tùy thuộc vào những mật độ khác biệt ở những phần khác nhau của ngôi sao, và những sự vận chuyển phức tạp của các thứ khí bên trong ngôi sao. Và nếu các hố đen cũng khác nhau như những thiên thể đã co sụp để tạo thành chúng thì người ta rất khó đưa ra những dự đoán về các hố đen một cách tổng quát.

Tuy nhiên, năm 1967, việc khảo cứu các hố đen đã được nhà khoa học Gia Nã Đại Werner Israel – sinh tại Berlin, lớn lên ở Nam Phi và lấy bằng tiến sĩ ở Ái Nhĩ Lan – cách mạng hóa. Israel cho thấy rằng, theo thuyết tương đối tổng quát, các hố đen nào không quay tròn phải có hình thái rất đơn giản; chúng có hình cầu hoàn hảo, tầm cỡ của chúng chỉ tùy thuộc vào khối lượng của chúng, và bất cứ hai hố đen nào có khối lượng bằng nhau thì giống y hệt nhau. Sự thật, chúng có thể được mô tả bằng một giải đáp đặc biệt theo những phương trình của Einstein mà người ta đã biết từ năm 1917, do Karl Schwarzschild tìm ra ít lâu sau khi có thuyết tương đối tổng quát. Lúc ban đầu nhiều người – kể cả chính Israel – lý luận rằng vì các hố đen phải là những khối hình cầu hoàn hảo, cho nên một hố đen chỉ có thể hình thành từ sự co sụp của một vật thể có hình cầu hoàn hảo. Vì vậy, bất cứ ngôi sao thực tế nào – chúng không bao giờ có hình cầu hoàn hảo – chỉ có thể co sụp thành một điểm kỳ dị trần trụi.

Tuy nhiên, có một cách giải thích khác theo kết quả của Israel mà Roger Penrose và John Wheeler đưa ra. Họ lý luận rằng những chuyển động nhanh liên quan tới sự co sụp của một ngôi sao có nghĩa rằng những sóng hấp lực mà nó phát ra sẽ khiến cho nó có hình cầu tròn hơn, và tới lúc nó đứng lại ở trạng thái bất động thì nó sẽ trở thành một hình cầu hoàn hảo. Theo quan điểm này, bất cứ ngôi sao nào không quay tròn, dù hình thù và cấu trúc bên trong của nó phức tạp tới đâu chăng nữa, nó cũng sẽ có chung kết là một hố đen hình cầu hoàn hảo sau khi co sụp vì hấp lực, và tầm cỡ lớn hay nhỏ sẽ chỉ tùy thuộc vào khối lượng của nó. Những tính toán về sau đã hỗ trợ cho quan điểm này, và chẳng bao lâu sau nó được mọi người tiếp nhận.

Kết quả của Israel chỉ được áp dụng cho trường hợp của những hố đen hình thành từ những thiên thể không xoay tròn. Năm 1963, Roy Kerr, người Tân Tây Lan, tìm ra một tập hợp những giải đáp cho những phương trình của thuyết tương đối tổng quát để mô tả những hố đen xoay tròn. Những hố đen "loại Kerr" này xoay tròn ở một tốc độ cố định, tầm cỡ và hình thù của chúng chỉ tùy thuộc vào khối lượng và tốc độ xoay tròn của chúng. Nếu sự xoay tròn của nó là số không thì hố đen có hình cầu hoàn hảogiải đáp giống y hệt như giải đáp của Schwarzschild. Nếu sự xoay tròn không phải là số không thì hố đen phình ra ở xích đạo của nó (giống như trái đất hoặc mặt trời phình ra do sức xoay tròn), và nếu nó xoay càng nhanh thì nó càng phình lớn. Vì vậy, để nới rộng kết quả của Israel để bao gồm cả những thiên thể xoay tròn, người ta phỏng đoán rằng bất cứ thiên thể nào xoay tròn mà co sụp để tạo thành một hố đen thì cuối cùng sẽ ổn định ở trạng thái đứng một chỗ như giải đáp của Israel mô tả.

Năm 1970, Brandon Carter, một đồng sự và bạn sinh viên nghiên cứu của tôi Đại Học Cambridge, thi hành bước đầu tiên để chứng minh điều phỏng đoán này. Ông cho thấy rằng nếu một hố đen xoay tròn có trục đối xứng – gống như một con quay bông vụ – thì tầm cỡ và hình thù của nó sẽ chỉ tùy thuộc vào khối lượng và tốc độ xoay của nó. Cuối cùng, năm 1973, David Robinson của trường Kings College ở Luân Đôn đã dùng những kết quả của Carter và của tôi để cho thấy rằng sự phỏng đoán này là đúng: một hố đen như vậy phải là giải đáp kiểu Kerr. Vì vậy sau khi co sụp do hấp lực một hố đen phải ổn định trong một trạng thái mà nó có thể xoay tròn, nhưng không phát ra những xung động. Hơn nữa, tầm cỡ và hình dạng của nó sẽ chỉ tùy thuộc vào khối lượng và tốc độ xoay tròn của nó, và không tùy thuộc vào thiên thể đã co sụp để tạo nên nó. Kết quả này ghi nhớ qua câu ngạn ngữ: "Một hố đen không có lông" ("A black hole has no hair"). Định lý "không lông" có tánh trọng yếu thực tế lớn, bởi vì nó rất hạn chế các loại hố đen có thể hiện hữu. Vì vậy người ta có thể tạo những mô hình chi tiết của những vật thể có thể chứa đựng những hố đen và so sánh những dự đoán về những mô hình đó với những điều quan sát. Nó cũng có nghĩa rằng một số lớn những tin tức về thiên thể đã co sụp phải bị mất khi một hố đen được hình thành, bởi vì sau đó tất cả những gì mà chúng ta có thể đo lường về thiên thể đó là khối lượng và tốc độ xoay của nó. Trong chương sau chúng ta sẽ thấy ý nghĩa đáng kể của điều này.

Hố đen là một trong những trường hợp khá hiếm trong lịch sử khoa học mà một lý thuyết được khai triển một cách chi tiết như là một mô hình toán học, trước khi có chứng cớ qua quan sát cho thấy lý thuyết đó đúng. Thật ra, điều này trước đây thường là luận cứ của những người bác bỏ sự hiện hữu của hố đen: làm sao người ta có thể tin vào những vật thể mà chứng cớ độc nhất của chúng là những tính toán dựa vào thuyết tương đối tổng quát mơ hồ? Tuy nhiên, năm 1963, Maarten Schmidt, một nhà thiên văn tại Đài Thiên Văn Palomar ở California, đo sự chuyển dịch về phía đỏ của một thiên thể giống như ngôi sao có ánh sáng mờ theo chiều hướng của một nguồn sóng vô tuyến gọi là 3C273 (có nghĩa là nguồn số 273 trong cuốn danh mục thứ ba của Đại Học Cambridge ghi những nguồn vô tuyến). Ông thấy rằng sự chuyển đỏ này quá lớn để có thể gây ra bởi một trường hấp lực: Nếu nó là một chuyển đỏ thì thiên thể đó phải có khối lượng thật lớn và ở gần chúng ta đến nỗi nó phải làm xáo động quỹ đạo của các hành tinh trong Thái Dương Hệ. Sự kiện này hàm ý rằng chuyển đỏ thật ra gây ra bởi sự bành trướng của vũ trụ và điều này có nghĩa rằng thiên thể đó ở rất xa chúng ta. Và khi mà chúng ta có thể trông thấy nó ở xa như vậy thì thiên thể đó phải rất sáng, nghĩa là nó phải phát ra năng lượng lớn lao. Cơ chế duy nhất mà người ta có thể nghĩ rằng nó sản xuất ra những lượng năng lượng lớn như vậy phải là sự co sụp của cả một khu trung tâm của một thiên hà, chứ không phải chỉ là một ngôi sao mà thôi. Một số những thiên thể khác cùng thuộc loại "hầu như sao" – "quasi-stellar" hay "quasar" – đã được tìm thấy, chúng đều có những chuyển đỏ rất lớn. Nhưng chúng đều ở quá xa nên quá khó quan sát để có thể cung cấp chứng cớ xác định những hố đen.

Một khích lệ nữa về sự hiện hữu của những hố đen xẩy ra năm 1967, qua sự khám phá bởi một sinh viên nghiên cứu tại Đại Học Cambridge, Jocelyn Bell, về những thiên thể trong vũ trụ phát ra những xung sóng vô tuyến đều đặn. Lúc đầu Bell và người giám sát của bà, Antony Hewish, tưởng rằng có thể họ đã liên lạc được với một nền văn minh xa lạ trong thiên hà! Tôi còn nhớ rằng tại một cuộc hội thảo để công bố khám phá này họ đã gọi bốn nguồn đầu tiên mà họ tìm thấy là "LGM 1-4" – LGM là chữ viết tắt của "Little Green Men" ("Tiểu Lục Nhân" – ám chỉ những người thuộc nền văn minh xa lạ). Tuy nhiên, cuối cùng họ và mọi người khác đành phải kết luận một cách kém lãng mạn rằng những vật thể này – được gọi là những "pulsars" (những tinh tú xung động) – thật ra là những trung tử tinh xoay tròn phát ra những xung sóng vô tuyến gây ra bởi sự tương tác phức tạp giữa những từ trường và vật chất xung quanh chúng. Đây là một tin xấu đối với các nhà văn viết truyện thám hiểm không gian, nhưng là một tin rất lạc quan đối với một số nhỏ trong chúng tôi, gồm những người tin vào sự hiện hữu của những hố đen ở thời đó: nó là chứng cớ xác thực đầu tiên về sự hiện hữu của các trung tử tinh. Một trung tử tinh có đường bán kính khoảng mười dặm, nghĩa là chỉ lớn hơn vài lần bán kính giới hạn mà một ngôi sao biến thành một hố đen. Nếu một ngôi sao co sụp tới mức nhỏ bé như vậy thì người ta có quyền trông mong rằng những ngôi sao khác cũng có thể co sụp tới cỡ nhỏ hơn để trở thành hố đen.

Làm sao chúng ta có thể hi vọng dò tìm một hố đen, khi mà nó không phát ra ánh sáng? Việc này gần giống như tìm kiếm một con mèo đen trong kho chứa than đá. May thay, có một cách. Như John Michell năm 1783 vạch ra trong luận văn có tính cách khai phá của ông, một hố đen vẫn còn tạo hấp lực lên những thiên thể ở gần nó. Các nhà thiên văn đã quan sát nhiều hệ thống trong đó hai tinh tú chạy quanh nhau, hấp dẫn nhau bởi hấp lực. Họ cũng quan sát những hệ thống trong đó họ chỉ nhìn thấy một tinh tú đang quay xung quanh một thiên thể khác mà họ không nhìn thấy. Người ta không thể kết luận ngay tức khắc rằng thiên thể không nhìn thấy đó là một hố đen: có thể nó chỉ là một ngôi sao có ánh sáng quá mờ nên không thể nhìn thấy. Tuy nhiên, một số hệ thống này, như hệ thống tên là Cygus X-1 (H. 6.2), cũng là những nguồn tia phóng xạ X rất mạnh. Cách giải thích tốt nhất cho hiện tượng này là vật chất đã bị thổi ra khỏi bề mặt của ngôi sao có thể trông thấy. Khi vật chất rơi về phía ngôi sao không trông thấy, nó đi theo đường xoáy ốc (gần giống như nước thoát ra từ bồn tắm), và nó trở thành rất nóng, phát ra những tia X (H. 6.3). Để cơ chế này tác động, thiên thể không trông thấy phải rất nhỏ, như một bạch tiểu tinh, một trung tử tinh, hay một hố đen. Suy ra từ quỹ đạo của ngôi sao có thể trông thấy, người ta xác định được khối lượng tối thiểuthiên thể không trông thấy phải có. Trong trường hợp của Cygnus X-1, khối lượng tối thiểu này là khoảng sáu lần lớn hơn khối lượng mặt trời; và theo giới hạn Chandrasekhar thì thiên thể không trông thấy đó có khối lượng quá lớn để có thể là một bạch tiểu tinh. Nó cũng quá lớn để có thể là một trung tử tinh. Cho nên có vẻ như nó phải là một hố đen.

Có những mô hình khác để giải thích Cygnus X-1 mà không bao gồm một hố đen, nhưng tất cả những cách giải thích hầu như quá xa vời. Một hố đen có vẻ là cách giải thích thực sự tự nhiên duy nhất hợp với những quan sát. Bất kể điều này, tôi đã cá với Kip Thorne thuộc học viện California Institute of Technology rằng thật ra Cygnus X-1 không chứa một hố đen! Đối với tôi đây là một hình thức bảo hiểm. Tôi đã công phu nghiên cứu về những hố đen, và tất cả sẽ thành uổng phí nếu hóa ra các hố đen không hiện hữu. Nhưng trong trường hợp đó tôi sẽ được an ủi nhờ thắng vụ cá cược mà tôi sẽ được hưởng bốn năm mua dài hạn tạp chí Private Eye. Nếu các hố đen thực sự hiện hữu, Kip sẽ được hưởng một năm mua dài hạn tạp chí Penthouse. Khi chúng tôi giao hẹn đánh cá vào năm 1975, chúng tôi tin chắc 80% rằng Cygnus là một hố đen. Đến nay, tôi có thể nói rằng chúng tôi tin chắc khoảng 95%, nhưng kết quả vụ cá cược chưa thể coi là ngã ngũ.

Ngày nay chúng ta cũng có chứng cớ cho vài hố đen khác trong những hệ thống giống như Cygnus X-1 trong thiên hà của chúng ta và trong hai thiên hà lân cận tên là Magellanic Clouds. Tuy nhiên, con số những hố đen hầu như chắc chắn phải cao hơn nhiều; trong lịch sử lâu dài của vũ trụ, nhiều ngôi sao phải đốt hết tất cả nhiên liệu hạch tâm của chúng và phải co sụp. Con số những hố đen có thể nhiều hơn cả con số những ngôi sao mà chúng ta có thể trông thấy – mà chỉ riêng trong thiên hà của chúng ta có khoảng một trăm ngàn triệu. Hấp lực gia trọng của một số lớn hố đen như vậy có thể giải thích tại sao thiên hà của chúng ta xoay với tốc độ hiện thời: khối lượng của những ngôi sao khả kiến không đủ để làm nó xoay nhanh như vậy. Chúng ta cũng có chứng cớ rằng có một hố đen lớn hơn nhiều – với khối lượng khoảng một trăm ngàn lần khối lượng mặt trời – tại trung tâm thiên hà của chúng ta. Những ngôi sao tiến đến quá gần hố đen này sẽ bị xâu xé thành từng mảnh bởi sự sai biệt của hấp lực tác động lên phía gần và phía xa của chúng. Những mảnh vụn của chúng và chất khí bay ra từ các ngôi sao khác sẽ rơi về phía hố đen. Giống như trong trường hợp của Cygnus X-1, chất khí sẽ xoáy theo đường trôn ốc về phía hố đen và sẽ nóng lên, tuy rằng không nóng nhiều như trong trường hợp đó. Nó sẽ không đủ nóng để phát ra những tia X, nhưng đủ để giải thích về nguồn gốc rất chặt chẽ của những sóng vô tuyến và những tia hồng ngoại tuyến mà chúng ta đã thấy tại trung tâm thiên hà.

Người ta cho rằng tại trung tâm của những quasars có những hố đen lớn hơn nữa, với khối lượng khoảng một trăm triệu lần khối lượng mặt trời. Vật chất rơi vào một hố đen có khối lượng cực kỳ lớn như vậy sẽ cung cấp nguồn năng lực duy nhất đủ mạnh để giải thích số năng lượng lớn lao mà những vật thể này phát ra. Khi vật chất rơi theo đường trôn ốc vào hố đen, nó sẽ khiến cho hố đen quay theo cùng chiều với nó, khiến nó phát triển một từ trường gần giống như từ trường của trái đất. Những hạt có năng lượng rất cao sẽ được phát ra ở gần hố đen bởi vật chất rơi xuống. Từ trường sẽ mạnh tới độ nó có thể quy tụ những hạt này thành những luồng bắn ra ngoài, dọc theo trục quay của hố đen, nghĩa là theo những chiều của bắc cực và nam cực của hố đen. Thật sự là người ta đã quan sát những luồng như vậy trong một số thiên hà và quasar.

Người ta cũng có thể xét tới khả năng có những hố đen với khối lượng nhỏ hơn mặt trời nhiều. Những hố đen như vậy không thể được hình thành bởi sự co sụp hấp lực, vì khối lượng của chúng ở dưới giới hạn Chandrasekhar: Các ngôi sao có khối lượng nhỏ như vậy có thể tự chống đỡ đối với hấp lực, ngay cả khi chúng đã tiêu thụ hết năng lượng hạch tâm. Những hố đen có khối lượng nhỏ chỉ có thể hình thành nếu vật chất của chúng bị nén chặt tới mật độ lớn lao bởi những sức ép ngoại tại rất lớn. Những điều kiện như vậy có thể xẩy ra trong một trái bom khinh khí rất lớn: nhà vật lý John Wheeler đã tính toán rằng nếu lấy tất cả nước nặng (D2O) trong tất cả các đại dương trên thế giới, người ta có thể tạo một trái bom khinh khí có sức ép mạnh đến nỗi nó nén vật chất bên trong thành một hố đen. (Dĩ nhiên là chẳng còn người nào sống sót để mà quan sát hiện tượng đó!) Một khả thể thực tế hơn là những hố đen có khối lượng nhỏ như vậy có thể đã được hình thành trong nhiệt độ và sức ép thật cao của vũ trụ ở thời rất sơ khai. Những hố đen chỉ có thể hình thành nếu vũ trụ thời sơ khai đã không trơn tru và không đồng nhất một cách hoàn hảo, vì chỉ một vùng nhỏ có mật độ cao hơn trung bình mới có thể bị nén chặt theo cách này để biến thành hố đen. Nhưng chúng ta biết rằng phải có những bất bình thường, vì nếu không có những nơi bất thường thì vật chất trong vũ trụ ngày nay phải được phân phối một cách hoàn toàn đồng nhất, thay vì tụ tập thành những tinh tú và thiên hà.

Những nơi bất thường – tạo nên tinh tú và thiên hà – có dẫn tới sự hình thành một số đáng kể những hố đen "ban đầu" hay không thì tùy thuộc vào những điều kiện trong vũ trụ thuở sơ khai. Vì vậy, nếu chúng ta có thể xác định ngày nay có bao nhiêu hố đen ban đầu thì chúng ta sẽ biết được nhiều điều về những giai đoạn rất sớm của vũ trụ. Những hố đen ban đầu có khối lượng nặng hơn một ngàn triệu tấn (tương đương với khối lượng của một hòn núi lớn) chỉ có thể dò tìm được nhờ ảnh hưởng hấp lực của chúng đối với vật chất khác có thể trông thấy được, hoặc đối với sự bành trướng của vũ trụ. Tuy nhiên, như chúng ta sẽ thấy trong chương sau, các hố đen chẳng phải thực sự đen tối: chúng chiếu sáng như một vật thể nóng, và chúng càng nhỏ thì lại càng chiếu sáng hơn. Vì vậy, có điều nghịch lý là các hố đen càng nhỏ thì có thể càng dễ tìm thấy hơn những hố đen lớn!



#62
tritanngo99

tritanngo99

    Đại úy

  • Điều hành viên THPT
  • 1644 Bài viết
LƯỢC SỬ THỜI GIAN
(A Brief History of Time)
Tác Giả:-Steven Hawking - Dịch Giả:-Thích Viên Lý
Viện Triết Lý Việt NamTriết Học Thế Giới, USA


CHƯƠNG 7
HỐ ĐEN KHÔNG ĐEN LẮM

Trước năm 1970, cuộc nghiên cứu của tôi về thuyết tương đối tổng quát đã tập trung vào vấn đề phải chăng có một nhất thể bùng nổ lớn. Tuy nhiên, một buổi tối trong tháng 11 năm đó, ít ngày sau khi con gái tôi, Lucy, ra đời, tôi bắt đầu suy nghĩ về những hố đen trong lúc tôi lên giường đi ngủ. Sự tàn phế khiến tôi phải hành động chậm chạp, vì vậy tôi có nhiều thì giờ để suy nghĩ. Lúc bấy giờ không có một định nghĩa chính xác nào về những điểm trong không-thời gian nằm bên trong một hố đen và những điểm nào nằm bên ngoài nó. Tôi đã thảo luận với Roger Penrose về ý kiến định nghĩa một hố đen như là một tập hợp những biến cố mà từ đó không vật gì có thể thoát ra tới một khoảng cách xa – định nghĩa này ngày nay đã được chấp nhận một cách rộng rãi. Điều đó có nghĩa rằng ranh giới của hố đen, tức chân trời biến cố, được hình thành bởi những đường đi trong không-thời gian của các tia sáng không thể thoát ra khỏi hố đen, vĩnh viễn lảng vảng trên mép bờ (H. 7.1). Điều này gần giống như một người chạy trốn cảnh sát rượt đuổi và chỉ có thể chạy trước một bước chứ không thể chạy cách xa hơn!

Bỗng nhiên tôi ý thức rằng đường đi của những tia sáng này có thể không bao giờ tiến về phía nhau. Nếu chúng tiến về phía nhau thì cuối cùng chúng phải gặp nhau. Điều đó cũng giống như bạn đụng vào một người nào khác đang chạy trốn cảnh sát ngược chiều với bạn – rốt cuộc cả hai đều bị bắt! (Hoặc trong trường hợp này là cả hai đều rơi vào hố đen.) Nhưng nếu những tia sáng này bị hố đen nuốt chửng thì chúng không thể nằm trên ranh giới của hố đen. Vì vậy đường đi của tia sáng trong chân trời biến cố phải luôn luôn di chuyển song song với nhau, hoặc rời xa nhau. Một cách khác để thấy điều này là chân trời biến cố, ranh giới của hố đen, giống như mép bờ của một bóng đen – bóng đen sự tận số gần kề. Nếu nhìn vào bóng đen tạo nên bởi một nguồn từ rất xa, chẳng hạn như mặt trời, bạn sẽ thấy rằng những tia sáng trong mép bờ không tiến về phía nhau.

Nếu những tia sáng tạo thành chân trời biến cốranh giới của hố đen – không bao giờ có thể tiến về phía nhau thì diện tích của chân trời biến cố luôn luôn giữ nguyên hoặc gia tăng với thời gian chứ không bao giờ có thể giảm bớt – vì nếu giảm bớt thì có nghĩa rằng ít ra một số tia sáng trong ranh giới phải tiến về phía nhau. Thật ra, diện tích đó sẽ gia tăng mỗi khi vật chất hoặc phóng xạ rơi vào hố đen (H. 7.2). Hoặc khi nào hai hố đen đụng vào nhau và hòa nhập thành một hố đen đơn độc, diện tích chân trời biến cố của hố đen tận cùng đó sẽ lớn hơn hoặc bằng tổng số của những diện tích chân trời biến cố của hai hố đen nguyên thủy (H. 7.3). Đặc tánh bất giảm này của diện tích chân trời biến cố đặt ra một sự hạn chế quan trọng đối với hành vi của hố đen có thể xẩy ra. Khám phá này khiến tôi bị kích động đến nỗi đêm hôm đó tôi chẳng ngủ được nhiều. Hôm sau tôi gọi điện thoại cho Roger Penrose. Anh ấy đồng ý với tôi. Tôi nghĩ rằng thật ra anh ấy đã biết về đặc tánh này của diện tích chân trời biến cố. Tuy nhiên, anh ấy đã dùng một định nghĩa hơi khác về hố đen. Anh ấy không nhận ra rằng những ranh giới của hố đen theo hai định nghĩa đều giống nhau, do đó những diện tích của chúng cũng giống nhau, miễn rằng hố đen đã ổn định ở trạng thái mà nó không còn thay đổi với thời gian.

Hành vi bất giảm của diện tích hố đen khiến người ta dễ liên tưởng tới hành vi của lượng vật lý gọi là "entropy" dùng để đo lường mức độ vô trật tự của một hệ thống. Kinh nghiệm thông thường cho chúng ta thấy rằng sự vô trật tự có khuynh hướng gia tăng nếu không có sự can thiệp nào từ bên ngoài. (Hãy đình chỉ những việc tu bổ nhà cửa thì bạn sẽ thấy ngay điều này!) Người ta có thể tạo trật tự từ vô trật tự (thí dụ bạn có thể sơn nhà), nhưng điều này đòi hỏi tới sự tiêu hao sinh lực hoặc năng lượng, và do đó làm giảm số năng lượng trật tự có sẵn.

Quan niệm này được mô tả chính xác qua định luật thứ nhì của môn nhiệt động học (thermodynamics). Định luật này nói rằng entropy của một hệ thống biệt lập luôn luôn gia tăng, và rằng khi hai hệ thống liên kết với nhau, entropy của hệ thống phối hợp này sẽ lớn hơn tổng số của những entropies của các hệ thống đơn độc. Thí dụ, hãy xét một hệ thống gồm những phân tử khí trong một cái hộp. Các phân tử có thể được coi như những viên bi-a không ngừng đụng vào nhau và nẩy ra khỏi các vách của cái hộp. Nhiệt độ của khí càng cao thì các phân tử di chuyển càng nhanh hơn, và do đó chúng càng đụng vào vách hộp thường xuyên hơn và mạnh hơn, vì vậy chúng tạo áp lực hướng ngoại mạnh hơn lên vách hộp. Giả thử rằng lúc đầu tất các phân tử bị nhốt ở phía bên trái của hộp bởi một bức vách ngăn cách. Nếu sau đó người ta tháo gỡ bức vách ngăn cách, các phân tử sẽ có khuynh hướng lan tràn khắp nơi và chiếm cứ cả hai bên hộp. Vào lúc nào đó sau này, do tình cờ, tất cả các phân tử đều nằm ở bên phải hoặc trở về bên trái, nhưng khả thể lớn lao hơn phải xẩy ra là con số các phân tử sẽ hầu như đồng đều trong cả hai bên hộp. Một trạng thái như vậy thì kém trật tự hơn – hoặc vô trật tự hơn – trạng thái nguyên thủy trong đó tất cả các phân tử đều nằm ở bên trái. Vì vậy người ta nói rằng entropy của khí trong hộp đã gia tăng. Tương tự như vậy, giả thử người ta bắt đầu với hai cái hộp, một cái đựng các phân tử dưỡng khí và cái kia đựng các phân tử khí nitơ. Nếu người ta nối liền hai cái hộp với nhautháo gỡ vách ngăn cách, các phân tử dưỡng khí và các phân tử nitơ sẽ bắt hòa trộn lẫn nhau. Một lúc sau, trạng thái có nhiều khả năng xẩy ra nhất là sự hòa trộn khá đồng đều của các phân tử dưỡng khí và nitơ trong khắp hai hộp. Trạng thái này ít trật tự hơn, do đó có nhiều entropy hơn, trạng thái ban đầu của hai cái hộp riêng rẽ.

Định luật thứ nhì của nhiệt động học có một địa vị khác với địa vị của những định luật khoa học khác, chẳng hạn như định luật về hấp lực của Newton, vì nó không luôn luôn đứng vững mà chỉ đúng trong đại đa số trường hợp. Khả năng của tất cả phân tử khí trong cái hộp đầu tiên của chúng ta đều nằm trong nửa hộp, ở một lúc nào đó về sau này, có tỉ lệ là một trên hàng triệu triệu (1/triệu triệu) nhưng có thể xẩy ra. Tuy nhiên, nếu người ta có một hố đen, dường như có một cách vi phạm định luật thứ nhì dễ dàng hơn: chỉ cần liệng một số vật chất có nhiều entropy, chẳng hạn như một hộp khí, xuống hố đen. Tổng số entropy của vật chất bên ngoài hố đen sẽ giảm thiểu. Đương nhiên người ta vẫn có thể nói rằng tổng số entropy, kể cả entropy bên trong hố đen, không giảm bớt – nhưng vì không có cách nào để nhìn vào bên trong hố đen, chúng ta không thể thấy vật chất trong đó có bao nhiêu entropy. Nếu hố đen có đặc tính nào đó để người quan sát bên ngoài có thể biết được entropy của nó, và entropy này sẽ gia tăng mỗi khi vật chất mang entropy rơi xuống hố đen, thì thật là tốt. Theo sau khám phá, được mô tả trên đây, rằng diện tích của chân trời biến cố gia tăng mỗi khi vật chất rơi vào một hố đen, một sinh viên nghiên cứu tại Đại Học Princeton tên là Jacob Bekenstein đã đưa ra ý kiến rằng diện tích của chân trời biến cố là sự đo lường entropy của hố đen. Khi vật chất mang entropy rơi vào một hố đen, diện tích của chân trời biến cố sẽ gia tăng, do đó tổng số entropy của vật chất bên ngoài hố đen và diện tích của các chân trời sẽ không bao giờ giảm thiểu.

Ý kiến này có vẻ ngăn cản sự vi phạm định luật thứ nhì của nhiệt động học trong đa số tình huống. Tuy nhiên, nó có một khuyết điểm không thể chấp nhận. Nếu một hố đen có entropy thì nó cũng phải có một nhiệt độ. Nhưng một vật thể với một nhiệt độ nào đó phải phát ra bức xạ ở một tốc độ nào đó. Qua kinh nghiệm thông thường chúng ta thấy rằng nếu đốt nóng một cây sắt gắp than trong lò sưởi thì nó sẽ nóng đỏ lên và phát ra bức xạ; tuy nhiên, những vật thể ở nhiệt độ thấp hơn cũng phát ra bức xạ; chúng ta thường không nhận ra điều này là vì số lượng bức xạ của chúng tương đối nhỏ. Bức xạ này cần phải có để khỏi vi phạm định luật thứ nhì của nhiệt động học. Cho nên các hố đen phải phát ra bức xạ. Nhưng theo như chính định nghĩa của chúng thì hố đen được coi là những vật thể không phát ra bất cứ thứ gì. Vì vậy có vẻ như điện tích của chân trời biến cố của một hố đen không thể được coi là entropy của nó. Năm 1972 tôi viết một luận văn cùng với Brandon Carter và một đồng sự người Mỹ, Jim Bardeen, trong đó chúng tôi vạch ra rằng tuy có nhiều điểm tương đồng giữa entropy và diện tích của chân trời biến cố, nhưng vẫn có điều nan giải triệt tiêu này. Tôi phải nhìn nhận rằng khi viết luận văn này tôi đã bị thúc đẩy một phần bởi sự bực bội đối với Bekenstein, người mà tôi cảm thấy đã sử dụng sai phám phá của tôi về sự gia tăng diện tích của chân trời biến cố. Tuy nhiên, sau cùng thì hóa ra anh ấy nói đúng trên căn bản, dù rằng trên một phương diện mà anh ấy đã không dự liệu.

Vào tháng 9 năm 1973, khi tôi đang thăm viếng Mạc Tư Khoa, tôi thảo luận về hố đen với hai chuyên gia hàng đầu của Liên Xô, Yakov Zeldovich và Alexander Starobinsky. Họ thuyết phục tôi rằng, theo nguyên lý bất định trong cơ học lượng tử, các hố đen quay tròn phải sanh ra và phát ra những hạt. Tôi tin những lý luận của họ trên những cơ sở vật lý, nhưng tôi không thích đường lối toán học mà họ dùng để tính toán bức xạ. Cho nên tôi bắt tay vào việc hoạch định một phương pháp xử lý toán học tốt hơn, mà tôi đã mô tả tại một cuộc hội thảo không chính thứcĐại Học Oxford vào cuối tháng 11 năm 1973. Lúc bấy giờ tôi chưa thi hành những tính toán để tìm ra mức độ bức xạ là bao nhiêu. Tôi trông mong tìm thấy bức xạ mà Zeldovich và Starobinsky đã tiên đoán từ những hố đen. Tuy nhiên, khi thi hành việc tính toán, tôi vừa ngạc nhiên vừa bực bội khi tìm ra rằng ngay cả những hố đen không quay tròn hiển nhiên cũng phải sanh ra và phát ra những hạt ở một tốc độ bất biến.

Ban đầu tôi nghĩ rằng sự bức xạ này cho thấy một trong những xấp xỉ gần đúng (approximations) mà tôi đã sử dụngvô hiệu. Tôi e ngại rằng nếu Bekenstein phát hiện điều này thì anh ấy sẽ dùng nó như là một biện luận bổ túc để hỗ trợ những ý kiến của mình về entropy của hố đen – mà tôi vẫn thấy không ưa. Tuy nhiên, khi tôi càng nghĩ về nó thì những xấp xỉ gần đúng càng có vẻ xác thực. Nhưng sau cùng tôi tin rằng sự bức xạ có thật là bởi vì cái phổ của mhững hạt bị bức xạ giống hệt như cái phổ bức xạ của một vật thể nóng, và rằng hố đen phát ra những hạt ở tốc độ chính xác để khỏi vi phạm định luật thứ nhì của nhiệt động học. Kể từ đó những tính toán đã được những người khác lập lại bằng một số những hình thức khác nhau. Tất cả đều xác xác nhận rằng một hố đen phải phát ra những hạt và bức xạ, giống như nó là một vật thể nóng với một nhiệt độ chỉ tùy thuộc vào khối lượng của hố đen: khối lượng càng cao thì nhiệt độ càng thấp.

Làm sao một hố đen lại có vẻ như phát ra những hạt khi chúng ta biết rằng không có thứ gì có thể vượt thoát ra từ bên trong chân trời biến cố? Câu trả lời, theo thuyết lượng tử cho chúng ta biết, là các hạt không phát ra từ bên trong hố đen mà từ khoảng không gian "trống rỗng" ngay bên ngoài chân trời biến cố của hố đen! Chúng ta có thể hiểu điều này theo cách sau đây: Cái mà chúng ta nghĩ tới như là không gian "trống rỗng" không thể hoàn toàn trống rỗng, vì điều đó sẽ có nghĩa rằng tất cả các trường – như trường hấp lực và trường điện từ – phải đúng là số 0. Tuy nhiên, trị số của một trường và tốc độ biến đổi của nó với thời gian giống như vị trí và vận tốc của một hạt: nguyên lý bất định hàm ý rằng khi người ta biết càng chính xác hơn về những lượng này thì người ta lại biết càng thiếu chính xác hơn về lượng khác. Vì vậy trong không gian trống rỗng trường không thể được ấn định ở đúng số 0, vì khi đó nó sẽ có cả một trị số chính xác (số 0) và một tốc độ biến đổi chính xác (cũng là số 0). Phải có một số lượng bất định tối thiểu nào đó, hoặc những thăng giáng lượng tử, trong trị số của trường. Người ta có thể coi những thăng giáng này như là những đôi hạt của ánh sáng hoặc hấp lực cùng xuất hiệnthời khắc nào đó, rồi lìa khỏi nhau, và rồi lại tái hợp và tiêu diệt lẫn nhau. Những hạt này là những hạt ảo giống như những hạt mang hấp lực của mặt trời: không giống như những hạt thật, người ta không thể trực tiếp quan sát chúng bằng một máy dò hạt. Tuy nhiên, những hiệu ứng gián tiếp của chúng, chẳng hạn như những biến đổi nhỏ trong năng lượng của những quỹ đạo điện tử trong các nguyên tử, có thể đo lường được và phù hợp với những tiên đoán lý thuyết tới độ chính xác đáng kể. Nguyên lý bất định cũng tiên đoán rằng sẽ có những đôi hạt vật chất ảo tương tự, như những điện tử hoặc những quark. Tuy nhiên, trong trường hợp này một thành viên của đôi sẽ là một hạt và thành viên kia là một phản hạt (những phản hạt của ánh sáng và hấp lực đều giống như những hạt).

năng lượng không thể sanh ra từ hư không, cho nên một trong hai thành viên của một đôi hạt/phản hạt sẽ có năng lượng dương, và thành viên kia có năng lượng âm. Cái có năng lượng âm phải chịu số phận là hạt ảo có đời sống ngăn ngủi, vì hạt thực luôn luôn có năng lượng dương trong những tình huống bình thường. Cho nên nó đi tìm bạn của nó và tiêu diệt nhau. Tuy nhiên, một hạt thực ở gần một vật thể có khối lượng lớn sẽ có ít năng lượng hơn là nếu nó ở xa, vì nó phải tốn năng lượng để đối kháng với hấp lực của vật thể. Bình thường, năng lượng của hạt vẫn còn là dương, nhưng trường hấp lực bên trong một hố đen mạnh đến nỗi ngay cả một hạt thực cũng có thể có năng lượng âm. Vì vậy, nếu một hố đen hiện diện, hạt ảo mang năng lượng âm có thể rơi vào hố đen và trở thành một hạt thực hoặc phản hạt. Trong trường hợp này nó không cần phải cùng hủy diệt với bạn của nó. Người bạn bị bỏ rơi của nó cũng có thể rơi vào hố đen. Hoặc, vì có năng lượng dương, người bạn này cũng có thể vượt thoát khỏi vùng lân cận của hố đen như là một hạt thực hoặc phản hạt (H. 7.4). Đối với một người quan sát từ xa, nó có vẻ như được phát ra từ hố đen. Hố đen càng nhỏ thì hạt có năng lượng âm sẽ phải đi khoảng cách càng ngắn, trước khi nó trở thành một hạt thực, và do đó tốc độ bức xạ và nhiệt độ biểu kiến của hố đen càng lớn.

Năng lượng dương của bức xạ phát ra sẽ được quân bình bởi những hạt mang năng lượng âm rơi vào hố đen. Theo phương trình E = mc2 (với E là năng lượng, m là khối lượng, và c là tốc độ ánh sáng), năng lượng tỉ lệ thuận với khối lượng. Cho nên khi năng lượng âm chảy vào hố đen nó làm giảm khối lượng của hố đen. Khi hố đen bị mất khối lượng, diện tích chân trời biến cố của nó trở thành nhỏ hơn, nhưng sự sút giảm trong entropy của hố đen được bù đắp nhiều hơn bởi entropy của bức xạ phát ra, cho nên định luật thứ nhì không bị vi phạm.

Vả lại, khối lượng của hố đen càng nhỏ thì nhiệt độ của nó càng cao. Vì vậy khi hố đen tổn thất khối lượng, nhiệt độ và tốc độ bức xạ của nó gia tăng, do đó nó tổn thất khối lượng càng nhanh hơn. Người ta không rõ điều gì xẩy ra khi khối lượng của hố đen trở thành cực kỳ nhỏ, nhưng điều hợp lý nhất để phỏng đoán là nó sẽ hoàn toàn biến mất trong một bùng nổ bức xạ cuối cùng thật là khủng khiếp, tương đương với sự phát nổ của hàng triệu trái bom kinh khí.

Một hố đen với khối lượng vài lần lớn hơn khối lượng mặt trời sẽ có một nhiệt độ chỉ là một phần mười triệu độ trên số không tuyệt đối. Nhiệt độ này thấp hơn rất nhiều so với nhiệt độ của bức xạ vi ba tràn ngập trong vũ trụ (khoảng 2.70 trên số không tuyệt đối), vì vậy các hố đen loại này phát ra bức xạ ít hơn bức xạ mà chúng thu hút. Nếu vũ trụ sẽ mãi mãi tiếp tục bành trướng, nhiệt độ của bức xạ vi ba sẽ tới lúc giảm xuống mức thấp hơn nhiệt độ của một hố đen loại này, lúc đó nó sẽ bắt đầu tổn thất khối lượng. Nhưng ngay cả lúc đó nhiệt độ của nó sẽ thấp đến nỗi phải cần một thời gian khoảng một triệu triệu triệu triệu triệu triệu triệu triệu triệu triệu triệu năm (số 1 với 66 số không theo sau) để hoàn toàn ba hơi tan biến. Thời gian này dài hơn tuổi của vũ trụ rất nhiều – tuổi của vũ trụ chỉ vào khoảng từ mười tới hai mươi ngàn triệu năm (số 1 hoặc số 2 với 10 số không theo sau).

Mặt khác, như đã đề cập trong Chương 6, có thể có những hố đen nguyên thủy, với khối lượng nhỏ hơn nhiều, được tạo bởi sự co sụp của những nơi bất thường trong những giai đoạn rất sớm của vũ trụ. Những hố đen như vậy có nhiệt độ cao hơn nhiều và phát ra bức xạ ở tốc độ nhanh hơn nhiều. Một hố đen nguyên thủy với khối lượng ban đầu vào khoảng một ngàn triệu tấn có sanh mệnh hầu như bằng tuổi của vũ trụ. Những hố đen nguyên thủy với khối lượng ban đầu nhỏ hơn con số này thì đã hoàn toàn bay hơi hết rồi, nhưng những hố đen nào có khối lượng lớn hơn một chút thì vẫn còn đang phát ra bức xạ gồm những tia X và tia gamma. Những tia X và tia gamma này giống như những sóng ánh sáng, nhưng với độ dài sóng ngắn hơn nhiều. Những hố loại này hầu như không xứng đáng với tính từ "đen": thật ra chúng là những thiên thể nóng trắng và phát ra năng lượng ở tốc độ khoảng mười ngàn megawatt.

Một hố đen loại này có thể điều động được mười nhà máy sản xuất điện cỡ lớn, nếu chúng ta có thể khai thác được năng lực của nó. Tuy nhiên, điều này rất khó: hố đen có khối lượng của một hòn núi bị nén chặt thành nhỏ hơn một phần triệu triệu của một inch, bằng cỡ hạt nhân của một nguyên tử! Nếu bạn có một hố đen như vậy trên mặt địa cầu, sẽ không có cách nào để cản nó khỏi xuyên qua vỏ trái đất và rơi vào trung tâm trái đất. Nó sẽ chạy lên chạy xuống qua vỏ trái đất nhiều lần rồi cuối cùng nằm yên tại trung tâm. Vì vậy nơi duy nhất để đặt một hố đen như vậy, để có thể sử dụng năng lượng mà nó phát ra, phải là trên quỹ đạo vòng quanh trái đất – và biện pháp duy nhất để có thể đưa nó lên quỹ đạo phải là hấp dẫn nó lên đó bằng cách kéo một khối lượng lớn chạy phiá trước nó, giống như một củ cà-rốt phía trước một con lừa. Đề nghị này có vẻ không thực tiễn, ít ra là trong tương lai gần.

Nhưng, dù chúng ta không thể khai thác năng lực phát ra từ những hố đen nguyên thủy này, chúng ta có những cơ hội để quan sát chúng hay không? Chúng ta có thể tìm kiếm những tia gamma mà những hố đen nguyên thủy phát ra trong phần lớn thời gian mà chúng tồn tại. Tuy bức xạ từ đa số những hố đen này rất yếu, vì chúng ở rất xa, nhưng tổng số bức xạ từ toàn thể của chúng có thể dò tìm được. Chúng ta quan sát được một bối cảnh gồm các tia gamma: Hình 7.5 cho thấy cường độ quan sát khác biệt ở những tần số khác nhau (số sóng mỗi giây). Tuy nhiên, bối cảnh này rất có thể phát xuất từ những quá trình nào đó không phải là những hố đen nguyên thủy. Đường cong vẽ bằng chấm trong hình 7.5 cho thấy cường độ thay đổi tùy theo tần số của tia gamma phát ra bởi những hố đen nguyên thủy, nếu có trung bình 300 hố đen trong một vùng không gian của một khối lập phương rộng một năm ánh sáng. Vì vậy, có thể nói rằng những quan sát bối cảnh tia gamma không cung cấp cho chúng ta chứng cớ xác thực nào về sự hiện hữu của những hố đen nguyên thủy, nhưng chúng cho chúng biết rằng số hố đen nguyên thủy trung bình không thể nhiều hơn 300 trong mỗi vùng không gian hình lập phương rộng một năm ánh sáng trong vũ trụ. Giới hạn này có nghĩa rằng những hố đen nguyên thủy chỉ chiếm một phần triệu của toàn thể vật chất trong vũ trụ là nhiều nhất.

Vì những hố đen nguyên thủy hiếm như vậy, cho nên khó có thể có một hố đen ở đủ gần trái đất để chúng ta quan sát được nó như là một nguồn tia gamma riêng biệt. Nhưng vì hấp lực thu hút các hố đen nguyên thủy về phía bất cứ vật chất nào, cho nên chúng thường hiện hữu nhiều hơn ở trong và xung quanh các thiên hà. Vì vậy, dù bối cảnh tia gamma cho chúng ta biết rằng không thể có nhiều hơn 300 hố đen nguyên thủy trong mỗi khối lập phương không gian rộng trung bình một năm ánh sáng, nó không cho chúng ta biết gì về mật độ của những hố đen nguyên thủythể hiện hữu trong thiên hà của chúng ta. Giả thử những hố đen nguyên thủy trong thiên hà của chúng ta cao gấp một triệu lần con số đó thì hố đen gần chúng ta nhất chỉ cách trái đất khoảng một ngàn triệu kilômét, tức là có khoảng cách tương đương với khoảng cách từ trái đất tới Diêm Vương Tinh (Pluto), hành tinh xa nhất mà chúng ta biết. Ở khoảng cách này nó vẫn còn khó tìm ra bức xạ đều đặn của một hố đen, dù nếu năng lực của nó là mười ngàn megawatt. Để quan sát một hố đen nguyên thủy người ta phải dò tìm vài lượng tử tia gamma đến từ cùng một hướng trong vòng một thời gian hợp lý, chẳng hạn một tuần lễ. Nếu không, chúng có thể chỉ là thành phần của bối cảnh. Nhưng nguyên lý lượng tử của Planck cho chúng ta biết rằng mỗi lượng tử tia gamma có một năng lượng rất cao, vì các tia gamma có một tần số rất cao, vì vậy không cần tới nhiều lượng tử để phóng ra cả mười ngàn megawatt. Và để quan sát những lượng tử ít ỏi này từ khoảng cách của Diêm Vương Tinh người ta cần phải có một máy dò tia gamma lớn hơn bất cứ máy nào đã được thiết lập cho tới nay. Hơn nữa, máy dò sẽ phải đặt trên ngoại tầng không gian, vì tia gamma không thể xuyên qua bầu khí quyển.

Đương nhiên, nếu một hố đen ở gần trái đất như Diêm Vương Tinh đến lúc tận số và bùng nổ thì có thể dễ dàng dò tìm được bức xạ cuối cùng phát ra khi nổ. Nhưng nếu hố đen đã phát ra bức xạ trong thời gian mười hoặc hai mươi năm qua, rất khó có thể xẩy ra chuyện nó sẽ kết liễu cuộc đời trong vòng ít năm sắp tới, thay vì đã bùng nổ vài triệu năm trong quá khứ hoặc sẽ bùng nổ vài triệu năm trong tương lai! Vì vậy, để có một cơ hội hợp lý được dịp trông thấy một vụ bùng nổ như vậy trước khi ngân quỹ tài trợ cho cuộc nghiên cứu của bạn hết thời hạn, bạn cần phải tìm cách nào để phát hiện bất cứ những vụ nổ nào có khoảng cách trong vòng khoảng một năm ánh sáng. Bạn vẫn cần phải có một máy dò tìm tia gamma thật lớn để quan sát vài lượng tử tia gamma từ vụ nổ. Tuy nhiên, trong trường hợp này, không cần thiết phải xác định rằng tất cả các lượng tử tìm thấy đều đến từ cùng một phương hướng: chúng ta chỉ cần nhận thấy chúng đều đến cách nhau một khoảng thời gian ngắn là đủ để tin tưởng một cách hợp lý rằng chúng đến từ cùng một vụ bùng nổ.

Một cái máy dò tìm tia gamma có khả năng tìm thấy những hố đen nguyên thủy là trọn bầu khí quyển của trái đất. (Dù sao chăng nữa, chúng ta không thể nào chế tạo được một cái máy dò lớn hơn thế!) Khi một lượng tử tia gamma có năng lượng cao đụng vào các nguyên tử trong bầu khí quyển của chúng ta, nó tạo ra những cặp điện tử và dương điện tử (positron, cũng gọi là antielectron – phản điện tử). Khi những cặp hạt tử này đụng vào các nguyên tử khác chúng lại tạo thêm những cặp điện tử và dương điện tử khác, điều này tạo thành một trận mưa điện tử. Kết quả sanh ra một hình thức ánh sáng gọi là bức xạ Cerenkov (Cerenkov radiation). Vì thế người ta có thể dò tìm những phóng xạ tia gamma bằng cách tìm những lằn chớp ánh sáng trong bầu trời ban đêm. Đương nhiên có một số những hiện tượng khác, chẳng hạn như những lằn chớp do các luồng điện gây ra và những phản chiếu của ánh sáng mặt trời dội xuống từ những vệ tinh đang quay tròn và những mảnh vụn trên quỹ đạo, đều có thể phát ra những tia chớp trong bầu trời. Người ta có thể phân biệt những lằn chớp do tia gamma gây ra với những hiện tượng kể trên bằng cách quan sát các lằn chớp cùng một lúc tại hai hoặc vài địa điểm cách xa nhau. Một cuộc tìm kiếm như vậy đã được thi hành bởi hai khoa học gia Ái Nhĩ Lan, Neil Porter và Trevor Weekes, sử dụng những viễn vọng kính trong tiểu bang Arizona. Họ đã tìm thấy một số lằn chớp nhưng không có cái nào có thể xác nhận là những bức xạ tia gamma đến từ các hố đen nguyên thủy.

Dù nếu việc tìm kiếm những hố đen nguyên thủy không có kết quả gì, có vẻ là như vậy, nó sẽ vẫn còn cho chúng ta tin tức quan trọng về những thời kỳ rất sớm của vũ trụ. Nếu vũ trụthời kỳ sớm từng là hỗn loạn hoặc vô quy tắc, hoặc nếu áp lực của vật chất rất thấp, thì người ta trông mong nó sản xuất nhiều hố đen nguyên thủy hơn giới hạn đặt ra bởi những quan sát của chúng ta về bối cảnh tia gamma. Chỉ trong trường hợp vũ trụ thời ban sơ đã rất trơn tru và đồng nhất, với áp lực cao, thì người ta mới có thể giải thích sự vắng mặt của những con số hố đen nguyên thủy có thể quan sát được.

Ý tưởng về bức xạ từ những hố đen là thí dụ đầu tiên về một dự kiến tùy thuộc vào một phương thức thiết yếu về cả những lý thuyết vĩ đại của thế kỷ 20: thuyết tương đối tổng quát và cơ học lượng tử. Nó đã gây ra nhiều chống đối lúc đầu vì nó làm xáo trộn quan điểm đương thời: "Làm sao một hố đen lại có thể phát ra bất cứ cái gì?" Lần đầu khi tôi tuyên bố kết quả từ những tính toán của tôi tại một hội nghị ở Phòng Thí Nghiệm Rutherford-Appleton gần Oxford, mọi người đều hoài nghi. Vào lúc kết thúc bài diễn thuyết của tôi, vị chủ tịch của buổi hội thảo, John G. Taylor của truờng Kings College, Luân Đôn, bảo rằng tất cả những điều tôi nói đều vô nghĩa. Thậm chí ông viết một bài luận văn để nói như vậy. Tuy nhiên, cuối cùng đa số những người đó, kể cả John Taylor, đã đi tới kết luận rằng các hố đen phải bức xạ như những vật thể nóng nếu những ý tưởng khác của chúng ta về thuyết tương đối tổng quát và cơ học lượng tử là đúng. Vì thế, tuy rằng chúng ta chưa tìm được một hố đen nguyên thủy, nhiều người đồng ý rằng nếu chúng ta tìm thấy thì nó phải phát ra nhiều tia gamma và tia X.

Sự hiện hữu của bức xạ từ những hố đen có vẻ ngụ ý rằng sự co sụp do hấp lực chưa phải là tình trạng chung cuộc và bất khả đảo ngược như trước đây chúng ta đã nghĩ. Nếu một phi hành gia rơi vào một hố đen, khối lượng của nó sẽ gia tăng, nhưng cuối cùng năng lượng tương đương với khối lượng gia tăng đó sẽ quay trở về vũ trụ trong hình thức của bức xạ. Như vậy, có thể nói rằng nhà phi hành sẽ được "tái biến chế." Tuy nhiên, đây là một loại bất tử ngắn ngủi đáng thương, vì bất cứ quan niệm cá nhân nào về thời gian đối với nhà phi hành hầu như chắc chắn sẽ chấm dứt khi họ bị xé vụn bên trong hố đen! Ngay cả những loại hạt mà cuối cùng hố đen phát ra cũng sẽ khác với những hạt trong nguyên từ cấu tạo thành nhà phi hành: đặc trưng duy nhất của nhà phi hành còn sót lại là khối lượng hoặc năng lượng của họ.

Những xấp xỉ mà tôi dùng để tính sự xạ từ những hố đen sẽ rất thích hợp khi hố đen có một khối lượng lớn hơn một phần nhỏ của một gram. Tuy nhiên, chúng sẽ tan rã vào lúc kết thúc cuộc đời của hố đen khi khối lượng của nó trở thành rất nhỏ. Kết quả hợp lý nhất có vẻ là hố đen sẽ biến mất, ít ra là từ vùng của chúng ta trong vũ trụ, đem theo với nó nhà phi hành và bất cứ điểm kỳ dị nào có thể hiện hữu bên trong nó, nếu một điểm kỳ dị thực sự hiện hữu. Đây là dấu hiệu đầu tiên bảo rằng cơ học lượng tử có thể trừ khử những điểm kỳ dị mà thuyết tương đối tổng quát đã tiên đoán. Tuy nhiên, những phương pháp mà tôi và những người khác đã sử dụng trong năm 1974 không thể trả lời những câu hỏi như: liệu các điểm kỳ dị có xuất hiện trong hấp lực lượng tử hay không. Vì vậy, từ năm 1975 trở đi tôi bắt đầu khai triển một đường lối mạnh hơn để xét tới hấp lục lượng tử căn cứ vào ý kiến của Richard Feynman về một tổng thể của lịch sử. Những câu trả lời mà đường lối này đề xướng đối với nguồn gốc và chung cuộc của vũ trụ và những gì chứa trong đó, như các phi hành gia, sẽ được mô tả trong hai chương sau đây. Chúng ta sẽ thấy rằng tuy nguyên tắc bất định đặt những giới hạn đối với sự chính xác của tất cả những tiên đoán của chúng ta, nhưng đồng thời nó có thể trừ khử sự bất khả tiên đoán cơ bản xảy ra tại một điểm kỳ dị không-thời gian.



#63
tritanngo99

tritanngo99

    Đại úy

  • Điều hành viên THPT
  • 1644 Bài viết
LƯỢC SỬ THỜI GIAN
(A Brief History of Time)
Tác Giả:-Steven Hawking - Dịch Giả:-Thích Viên Lý
Viện Triết Lý Việt NamTriết Học Thế Giới, USA


CHƯƠNG 8
NGUỒN GỐC VÀ VẬN MỆNH CỦA VŨ TRỤ

Thuyết tương đối tổng quát của Einstein, riêng nó, tiên đoán rằng không-thời gian đã khởi đầu ở điểm kỳ dị nổ lớn (big bang singularity) và sẽ đi tới một chung cuộc hoặc ở điểm kỳ dị sụp đổ lớn (nếu toàn thể vũ trụ lại sụp đổ), hoặc ở một điểm kỳ dị bên trong một hố đen (nếu riêng một khu vực nào đó, như một ngôi sao, sụp đổ). Bất cứ vật chất nào rơi vào hố cũng sẽ bị hủy diệt ở điểm kỳ dị, và chỉ còn hiệu ứng hấp lực của khối lượng của nó là tiếp tục được cảm nhận từ bên ngoài. Mặt khác, khi xét tới cả các hiệu ứng lượng tử, có vẻ như khối lượng hoặc năng lượng của vật chất cuối cùng sẽ được trả lại cho phần còn lại của vũ trụ, và rằng cái hố đen, cùng với bất cứ điểm kỳ dị nào bên trong nó, sẽ bốc hơi và cuối cùng biến mất. Có thể cơ học lượng tử có một hậu quả giống nhau về những điểm kỳ dị nổ lớn và điểm kỳ dị sụp đổ lớn hay không? Điều gì thực sự xảy ra ngay ở những giai đoạn đầu hoặc cuối của vũ trụ, khi các trường hấp lực mạnh đến độ các hậu quả lượng tử không thể bị bỏ qua? Vũ trụ quả thực có một khởi thủy hoặc một chung cuộc hay không? Và nếu có, chúng giống như cái gì?

Trong suốt thập niên 1970, tôi chủ yếu nghiên cứu các hố đen, nhưng vào năm 1981 sự lưu tâm của tôi vào những vấn đề nguồn gốc và số phận của vũ trụ lại thức dậy khi tôi tham dự một hội nghị về vũ trụ học được tổ chức bởi các tu sĩ Dòng Jesuit ở Vatican. Giáo Hội Thiên Chúa đã phạm một sai lầm lớn đối với Galileo khi họ cố áp đặt luật lệ lên một vấn đề khoa học, khi tuyên bố rằng mặt trời xoay quanh trái đất. Ngày nay, hàng thế kỷ sau, họ đã quyết định mời một số các chuyên viên tới để cố vấn về vũ trụ học. Vào cuối cuộc hội nghị, những người tham dự đã được diện kiến với giáo hoàng. Ngài nói với chúng tôi rằng không có gì trở ngại khi nghiên cứu sự tiến hóa của vũ trụ sau vụ nổ lớn, nhưng chúng tôi không nên tìm hiểu chính vụ nổ lớn bởi vì đó là lúc Sáng Thế và vì vậy đó là công việc của Thượng Đế. Tới lúc đó tôi lấy làm mừng vì ngài đã không biết cái đề tài nói chuyện mà tôi mới đưa ra tại cuộc hội nghị -- có thể rằng không-thời gian hữu hạn nhưng không có biên giới, có nghĩa rằng nó không có khởi đầu, không có lúc Sáng Thế. Tôi không muốn cùng chung số phận với Galileo, người mà tôi cảm thấy rất gần gũi, một phần vì sự trùng hợp là tôi đã sinh ra đúng 300 năm sau cái chết của ông.

Để giải thích những ý tưởng mà tôi và những người khác đã nghĩ về chuyện cơ học lượng tử có thể ảnh hưởng tới nguồn gốc và vận mệnh của vũ trụ như thế nào, trước hết cần phải hiểu lịch sử của vũ trụ theo như nhiều người đã chấp nhận, theo những gì được biết như là "mô hình nổ lớn nóng." Mô hình này cho rằng vũ trụ được mô tả bởi một mô hình Friedmann, ngược trở lại vụ nổ lớn. Trong những mô hình như vậy, người ta thấy rằng khi vũ trụ bành trướng, bất cứ vật chất hay sự bức xạ nào trong đó sẽ nguội đi. (Khi vũ trụ lớn gấp đôi, nhiệt độ của nó giảm đi một nửa.) Bởi vì nhiệt độ chỉ là một số đo của năng lượng trung bình -- hay tốc độ -- của các hạt, sự kiện vũ trụ nguội đi này sẽ có một ảnh hưởng lớn lao đối với vật chất trong đó. Ở các nhiệt độ thật cao, các hạt sẽ quay tròn nhanh đến độ chúng có thể thoát được bất cứ sự thu hút nào về phía nhau bởi các lực hạt nhân hoặc điện từ, nhưng khi chúng nguội lại người ta sẽ nghĩ rằng những hạt thu hút lẫn nhau bắt đầu tụ lại với nhau. Hơn nữa, ngay cả những loại hạt hiện hữu trong vũ trụ cũng phụ thuộc vào nhiệt độ. Ở những nhiệt độ đủ cao, những hạt mang nhiều năng lượng đến độ mỗi khi chúng va chạm, nhiều cặp hạt/phản hạt khác nhau sẽ được tạo ra -- và mặc dù một vài trong số những hạt này sẽ biến đi khi đụng vào các phản hạt, chúng sẽ được tạo ra nhanh hơn là chúng có thể biến mất. Tuy nhiên, ở những nhiệt độ thấp hơn, khi các hạt va chạm có ít năng lượng hơn, những cặp hạt/phản hạt sẽ được tạo ra chậm hơn -- và sự biến đi sẽ trở thành nhanh hơn sự sản xuất.

Tại chính vụ nổ lớn, người ta nghĩ vũ trụ phải có cỡ số không, và do đó phải nóng vô hạn. Nhưng khi vũ trụ bành trướng, nhiệt độ của sự phát xạ giảm đi. Một giây sau vụ nổ lớn, nó sẽ giảm còn khoảng mười ngàn triệu độ. Nhiệt độ này vào khoảng một ngàn lần nhiệt độ tại trung tâm của mặt trời, nhưng các nhiệt độ cao như vậy đạt được trong những vụ nổ bom khinh khí. Vào lúc này vũ trụ sẽ phải chứa phần lớn là các quang tử, điện tử, và neutrino (những hạt cực kỳ nhẹ chỉ chịu ảnh hưởng bởi lực yếu và hấp lực) và các phản hạt của chúng, cùng với một số proton (chất tử) và trung hòa tử. Khi vũ trụ tiếp tục bành trướng và nhiệt độ tiếp tục hạ, nhịp độ mà các cặp điện tử/phản điện tử được tạo ra trong những vụ va chạm sẽ hạ xuống dưới nhịp độ mà chúng bị hủy diệt do triệt tiêu lẫn nhau. Do đó hầu hết các điện tử và phản điện tử sẽ tiêu diệt lẫn nhau để sản xuất ra các quang tử, chỉ để lại một ít điện tử. Tuy nhiên các neutrino (trung vi tử) và phản neutrino sẽ không triệt tiêu nhau, bởi vì những hạt này chỉ tương tác với nhau và với những hạt khác một cách rất yếu. Do đó chúng vẫn còn tồn tại cho tới ngày nay. Nếu chúng ta có thể quan sát chúng, đây sẽ là một kiểm nghiệm tốt cho hình ảnh của vũ trụ ở giai đoạn đầu nóng đỏ này. Đáng tiếc là năng lượng của chúng ngày nay quá yếu để chúng ta có thể quan sát chúng một cách trực tiếp. Tuy nhiên, nếu các neutrino không phải là không có khối lượng, mà có một khối lượng nhỏ, như được đề xướng bởi một thí nghiệm không được xác nhận của người Nga thực hiện vào năm 1981, chúng ta có thể phát hiện chúng một cách gián tiếp: chúng có thể là một hình thức "chất tối," như đã được đề cập trước đây, với hấp lực đủ để làm ngưng sự bành trướng của vũ trụ và khiến vũ trụ lại sụp đổ.

Khoảng một trăm giây sau vụ nổ lớn, nhiệt độ sẽ hạ còn một ngàn triệu độ, bằng nhiệt độ bên trong những ngôi sao nóng nhất. Ở nhiệt độ này các quang tử và trung hòa tử sẽ không còn đủ năng lượng để thoát sự hấp dẫn của những lực hạt nhân mạnh, và sẽ bắt đầu kết hợp với nhau để sinh ra các nhân của các nguyên tử deuterium (khinh khí nặng), chứa một proton và một trung hòa tử. Nhân deuterium sau đó sẽ kết hợp thêm các proton và trung hòa tử để làm thành nhân helium, chứa hai proton và hai trung hòa tử, và còn thêm một lượng nhỏ các cặp nguyên tố nặng hơn, là lithium và berryllium. Người ta có thể tính toán rằng trong mô hình nổ lớn nóng, khoảng một phần tư các proton và trung hòa tử sẽ phải chuyển thành các nhân helium, cùng với một lượng nhỏ khinh khí nặng và các nguyên tố khác. Các trung hòa tử còn lại sẽ phân rã thành các proton, là nhân của các nguyên tử khinh khí bình thường.

Hình ảnh một giai đoạn đầu nóng của vũ trụ được đề xướng lần đầu bởi khoa học gia George Gamow trong một tài liệu nổi tiếng được viết năm 1948 với một học trò của ông, Ralph Alpher. Gamow quả đã có óc khôi hài -- ông đã thuyết phục khoa học gia hạt nhân Hans Bethe để thêm tên ông ta vào tài liệu để tên các tác giả trở thành "Alpher, Bethe, Gamow," giống như ba mẫu tự đầu tiên của bảng mẫu tự Hy Lạp, alpha, beta, gamma: đặc biệt thích hợp cho một tài liệu nói về sự khởi đầu của vũ trụ! Trong tài liệu này họ đã đưa ra sự tiên đoán quan trọng là sự bức xạ (dưới hình thức các quang tử) ngay từ những giai đoạn rất nóng lúc đầu của vũ trụ phải vẫn còn phải tồn tại đâu đây ngày nay, nhưng với nhiệt độ của nó giảm chỉ còn vài độ trên không độ tuyệt đối (-273? C). Đây chính là sự bức xạ mà Penzias và Wilson đã tìm ra năm 1965. Vào lúc mà Alpher, Bethe và Gamow viết tài liệu của họ, người ta không biết nhiều về những phản ứng hạt nhân của các proton và trung hòa tử. Những tiên đoán về tỉ lệ các nguyên tố khác nhau trong vũ trụ sơ khai do đó không chính xác mấy, nhưng những tính toán này đã được lập lại theo sự hiểu biết tốt hơnhiện giờ rất phù hợp với những gì mà chúng ta quan sát. Hơn nữa, rất khó giải thích bằng bất cứ đường lối nào khác tại sao phải có nhiều helium như vậy trong vũ trụ. Do đó chúng ta khá tự tin rằng chúng ta đang có hình ảnh đúng, ít nhất ngược lại khoảng 1 giây đồng hồ sau vụ nổ lớn.

Chỉ trong vòng vài giờ sau vụ nổ lớn, việc sản xuất ra helium và những nguyên tố khác sẽ ngưng lại. Và sau đó, trong khoảng một triệu năm kế tiếp, vũ trụ vẫn tiếp tục bành trướng, không có gì nhiều xảy ra. Cuối cùng, một khi nhiệt độ đã giảm còn vài ngàn độ, và các điện tử và nhân không còn đủ năng lượng để thắng thế sự thu hút điện từ giữa chúng với nhau, chúng khởi sự kết hợp lại để làm thành các nguyên tử. Tổng thể vũ trụ tiếp tục bành trướng và nguội lại, nhưng ở những khu vực hơi đậm đặc hơn mức trung bình, sự bành trướng sẽ phải chậm lại bởi sự hấp dẫn của trọng lực mạnh hơn nơi khác. Điều này cuối cùng sẽ làm ngưng sự bành trướng tại vài khu vực và khiến chúng khởi sự suy sụp trở lại. Khi chúng suy sụp, sức kéo trọng lực của vật chất bên ngoài những khu vực này có thể khiến chúng khởi sự quay nhẹ. Khi khu vực sụp đổ trở thành nhỏ hơn, nó sẽ quay nhanh hơn -- giống như những người trượt băng quay tròn trên băng nhanh hơn khi họ thu hai cánh tay lại. Cuối cùng, khi khu vực trở thành đủ nhỏ, nó sẽ quay đủ nhanh để cân bằng sức thu hút của trọng lực, và bằng cách này những thiên hà quay hình đĩa đã được sinh ra. Những khu vực khác, không khởi sự quay, sẽ trở thành những vật thể hình bầu dục gọi là những thiên hà hình e-líp. Trong những thiên hà này, khu vực sẽ ngưng suy sụp bởi vì những phần riêng rẽ của thiên hà sẽ quay tròn một cách ổn định chung quanh trung tâm của nó, nhưng thiên hà sẽ không quay toàn thể.

Khi thời gian trôi qua, khinh khí và khí helium trong thiên hà tách ra thành những đám mây nhỏ hơn và co sụp dưới trọng lực của chúng. Khi những đám mây này co rút lại, và những nguyên tử bên trong chúng va chạm với nhau, nhiệt độ của chất khí sẽ tăng lên, cho tới khi cuối cùngtrở thành đủ nóng để khởi sự các phản ứng tổng hợp hạt nhân. Những phản ứng này sẽ biến đổi khinh khí thành nhiều helium hơn, và sức nóng phát ra sẽ làm tăng áp suất, và do đó làm các đám mây ngưng co rút thêm nữa. Chúng vẫn ổn định trong trạng thái này trong một thời gian dài như những ngôi sao giống mặt trời của chúng ta, khi đốt khinh khí thành helium và phát ra năng lượng dưới hình thức nhiệt và ánh sáng. Những ngôi sao khối lượng lớn hơn sẽ cần phải nóng nhiều hơn để cân bằng hấp lực mạnh hơn của chúng, khiến các phản ứng tổng hợp hạt nhân diễn ra nhanh hơn đến độ chúng sẽ sử dụng hết số khinh khí của chúng chỉ trong vòng một trăm triệu năm. Khi đó chúng co rút lại một chút, và khi chúng nóng thêm, sẽ khởi sự chuyển đổi helium thành những nguyên tố nặng hơn như carbon và dưỡng khí (oxygen). Tuy nhiên, việc này sẽ không thải ra nhiều năng lượng, do đó một cuộc khủng hoảng sẽ xảy ra, như đã được mô tả trong chương nói về các hố đen. Những gì xảy ra tiếp theo thì không hoàn toàn minh bạch, nhưng có thể là những khu vực trung tâm của ngôi sao sẽ sụp đổ tới một trạng thái thật đậm đặc, như một ngôi sao trung hòa tử hoặc hố đen. Những khu vực bên ngoài của ngôi sao đôi khi có thể bị nổ tung trong một vụ nổ mạnh gọi là một vụ nổ siêu tân tinh (supernova), sẽ sáng hơn mọi ngôi sao khác trong thiên hà của nó. Một vài trong số những nguyên tố nặng hơn được sinh ra vào lúc gần cuối cuộc đời của một ngôi sao sẽ bị biến trở lại thành khí trong thiên hà, và sẽ cung cấp một vài trong số nguyên liệu để làm thành thế hệ các ngôi sao mới. Mặt trời của chúng ta chứa vào khoảng 2 phần trăm những nguyên tố nặng hơn này bởi vì nó là một ngôi sao ở thế hệ thứ hai hoặc thứ ba, được hình thành khoảng năm ngàn triệu năm về trước từ một đám mây gồm chất khí quay tròn chứa vật chất vương vãi của những vụ nổ siêu tân tinh trước đó. Hầu hết chất khí trong đám tinh vân đó đã làm thành mặt trời hoăïc bị thổi bay đi, nhưng một lượng nhỏ các nguyên tố nặng hơn đã tập hợp lại với nhau để làm thành các vật thể hiện giờ quay chung quanh mặt trời với tính cách các hành tinh như trái đất.

Trái đất lúc đầu rất nóng và không có bầu khí quyển. Theo thời gian nó nguội đi và có một bầu khí quyển phát sinh từ sự thoát các chất hơi từ đá. Bầu khí quyển ban đầu này không phải là bầu khí quyển mà chúng ta có thể sống trong đó. Nó không chứa dưỡng khí, mà chứa nhiều các chất khí khác độc hại đối với chúng ta, như chất hydrogen sulfide (chất khí phát ra mùi trứng thối). Tuy nhiên, có những hình thức sơ khai khác của đời sống có thể phát triển dưới những điều kiện này. Người ta cho rằng chúng đã phát triển ở các đại dương, có thể như là kết quả của những sự phối hợp tình cờ các nguyên tử thành những cơ cấu lớn hơn, gọi là các đại phân tử (macromolecule), có khả năng kết hợp các nguyên tử khác trong đại dương thành những cơ cấu tương tự. Chúng tự sinh sôi nảy nở. Trong vài trường hợp sẽ có những lầm lẫn trong sự sinh sản. Hầu hết những lầm lẫn này trầm trọng đến nỗi phân tử mới không thể tự sinh sản và cuối cùng bị hủy diệt. Tuy nhiên, một ít những lầm lẫn này đã sinh ra những đại phân tử mới tốt hơn trong việc tự sinh sản. Do đó chúng đãõ có một lợi thế và đãõ có khuynh hướng thay thế các đại phân tử nguyên thủy. Theo đường lối này một tiến trình tiến hóa đã khởi sự, đưa tới sự phát triển các sinh vật tự sinh sản ngày càng phức tạp hơn. Những hình thức sơ khai của đời sống đã tiêu thụ những vật liệu khác nhau, kể cả chất hydrogen sulfide, và thải ra dưỡng khí. Điều này dần dần đã thay đổi bầu khí quyển thành một tổng hợp mà nó có ngày nay và cho phép phát triển những hình thức đời sống cao hơn như cá, loài bò sát, loài có vú, và cuối cùngloài người.

Hình ảnh này của một vũ trụ khởi đầu thật nóng và nguội dần khi bành trướng phù hợp với mọi bằng chứng quan sátchúng ta có ngày nay. Tuy nhiên, còn một số câu hỏi quan trọng chưa được giải đáp:

(1) Tại sao vũ trụ ban đầu lại nóng như thế?

(2) Tại sao vũ trụ lại đồng nhất như vậy, khi xét trên đại quy mô? Tại sao nó trông như nhau tại mọi điểm của không gian và theo mọi hướng? Đặc biệt, tại sao nhiệt độ của bối cảnh bức xạ vi ba lại gần giống nhau như vậy khi chúng ta nhìn về những hướng khác nhau? Đyếu này hơi giống như hỏi một số các học sinh một câu hỏi khảo thí. Nếu tất cả họ đều cho một câu trả lời đúng như nhau, bạn có thể khá chắc chắn họ thông tin cho nhau. Tuy nhiên, trong mô hình được mô tả ở trên, đã không có thời gian kể từ vụ nổ lớn để ánh sáng từ một khu vực xa tới một khu vực khác, mặc dù các khu vực nằm gần nhau ở vũ trụ sơ khai. Theo thuyết tương đối, nếu ánh sáng không thể đi từ một khu vực này tới một khu vực khác, các thông tin khác cũng không thể truyền đi được. Do đó không có cách nào để các khu vực khác nhau ở vũ trụ sơ khaithể đạt tới cùng nhiệt độ như nhau, trừ phi vì một lý do nào đó không được giải thích chúng tình cờ khởi đầu với cùng nhiệt độ.

(3) Tại sao vũ trụ khởi đầu với nhịp độ bành trướng gần mức tới hạn như thế, khiến có những mô hình sẽ suy sụp và có những mô hình tiếp tục bành trướng mãi mãi, để ngay cả bây giờ, mười ngàn triệu năm sau, nó vẫn đang bành trướng với mức độ gần như tới hạn? Nếu nhịp độ bành trướng một giây sau vụ nổ lớn nhỏ hơn dù một phần của một trăm ngàn triệu triệu, vũ trụ đãõ sụp đổ trở lại trước khi nó đạt tới cỡ hiện nay.

(4) Mặc dù vũ trụ đồng nhất và giống nhau như vậy trên một tầm mức quy mô, nó chứa những bất thường có tính cách khu vực, như các ngôi sao và các thiên hà. Người ta cho rằng những vật thể này đã phát triển từ những khác biệt nhỏ về mật độ của vũ trụ sơ khai ở khu vực này so với khu vực kia. Nguồn gốc của những biến động về mật độ này là gì?

Thuyết tương đối tổng quát, một mình nóù, không thể giải thích những đặc điểm này hoặc trả lời những câu hỏi này bởi vì nó tiên đoán rằng vũ trụ đã khởi đầu với mật độ vô hạn ở điểm kỳ dị nổ lớn. Ở tình trạng điểm kỳ dị, thuyết tương đối tổng quát và mọi định luật vật lý khác sẽ sụp đổ: người ta không thể tiên đoán điều gì sẽ phát sinh từ điểm kỳ dị. Như đã được giải thích trước đây, điều này có nghĩa là người ta cũng có thể loại bỏ vụ nổ lớn, và bất cứ biến cố nào trước nó, ra khỏi lý thuyết, bởi vì chúng có thể khônghậu quả nào đối với những gì mà chúng ta quan sát. Không-thời gian có một biên giới -- một sự khởi đầu vào lúc xẩy ra vụ nổ lớn.

Khoa học có vẻ đã khám phá một bộ các định luật mà, trong những giới hạn được ấn định bởi nguyên tắc bất định, cho chúng ta biết vũ trụ sẽ phát triển như thế nào theo thời gian, nếu chúng ta biết tình trạng của nó ở bất cứ thời điểm nào. Những định luật này có thể lúc đầu đã được đặt ra bởi Thượng Đế, nhưng hình như từ đó ngài đã để mặc cho vũ trụ tiến hóa theo các định luậthiện giờ không can thiệp vào. Nhưng ngài đã lựa chọn tình trạng hay hình dạng sơ khai của vũ trụ như thế nào? Những "điều kiện biên giới" vào lúc khởi đầu thời gian là gì?

Có thể trả lời rằng Thượng Đế đã chọn hình dung sơ khởi của vũ trụ vì những lý dochúng ta không thể hy vọng hiểu được. Điều này chắc chắn đã nằm trong khả năng của một đấng toàn năng, nhưng nếu ngài đã khởi đầu nó theo một cách không thể hiểu nổi như vậy, tại sao còn để nó tiến hóa theo các định luậtchúng ta hiểu được? Toàn thể lịch sử của khoa học đã là sự nhận thức dần dần rằng các biến cố không xảy ra một cách tùy tiện, nhưng rằng chúng phản ảnh một số trật tự rõ rệt nào đó, có thể hay không thể gây ra bởi thần thánh. Sẽ chỉ là một điều tự nhiên khi giả định rằng trật tự này phải áp dụng không những cho các định luật, mà còn cho những điều kiện tại biên giới của không-thời gian mà tình trạng sơ khai của vũ trụ được ấn định. Có thể có một số lớn các mô hình vũ trụ với những điều kiện sơ khai khác nhau mà tất cả đều tuân theo các định luật. Phải có nguyên tắc nào đó đã lựa chọn một tình trạng sơ khai, và từ đó một mô hình, để mô tả vũ trụ của chúng ta.

Một sự khả dĩ như vậy là những gì được gọi là các điều kiện biên giới hỗn loạn. Những điều kiện này giản dị cho rằng hoặc vũ trụ vô tận về không gian hoặc có vô số vũ trụ trụ tới mức vô tận.Theo các điều kiện biên giới hỗn loạn, xác suất tìm được bất cứ khu vực không gian đặc biệt nào trong bất cứ hình thể nào ngay sau vụ nổ lớn cũng giống như, theo một nghĩa nào đó, xác suất tìm ra nó trong bất cứ hình thể nào khác: tình trạng sơ khai của vũ trụ được lựa chọn thuần túy một cách tình cờ. Điều này sẽ có nghĩa rằng vũ trụ ban đầu có thể đã rất hỗn loạn và bất thường bởi vì có nhiều hình dạng của vũ trụ hỗn loạn hơn và mất trật tự hơn so với những hình dạng trơn tru và trật tự. (Nếu mỗi hình dạng đều có xác suất bằng nhau, có lẽ vũ trụ đã khởi đầu ở một tình trạng hỗn loạn và mất trật tự, giản dị bởi vì có quá nhiều hình dạng như vậy.) Thật khó chấp nhận làm thế nào những điều kiện sơ khởi hỗn loạn như vậy có thể đưa tới một vũ trụ trơn tru và bình thường trên một tầm cỡ quy mô như vũ trụ của chúng ta ngày nay. Người ta cũng sẽ trông đợi những biến động về mật độ trong một mô hình như vậy phải đưa tới việc hình thành những hố đen nguyên thủy nhiều hơn nhiều so với mức tối đa đã được đặt ra bởi những quan sát bối cảnh tia gamma.

Nếu vũ trụ quả thật vô hạn về không gian, hoặc nếu vũ trụ nhiều vô số, có thể sẽ có vài khu vực rộng lớn ở đâu đó đã khởi đầu trong một trạng thái trơn tru và đồng nhất. Nó cũng hơi giống như bầy khỉ gõ hoài trên các máy đánh chữ -- hầu hết những gì chúng viết ra sẽ đều là rác rưởi, nhưng hi hữu thuần túy do tình cờ chúng đánh ra một trong những bài thơ ngắn của Shakespeare. Tương tự như vậy, trong trường hợp vũ trụ, liệu có thể rằng chúng ta đang sống trong một khu vực chỉ vì tình cờ mà trơn tru và đồng nhất hay không? Mới nhìn qua điều này có vẻ rất khó xảy ra, bởi vì những khu vực trơn tru như vậy sẽ bị tràn ngập bởi những khu vực hỗn loạn và không đều. Tuy nhiên, giả sử rằng chỉ ở những khu vực trơn tru các thiên hà và các ngôi sao mới được hình thành và các điều kiện trở nên thích hợp cho sự phát triển các sinh vật phức tạp tự sinh sản như chúng ta, những sinh vật có khả năng đặt ra câu hỏi: Tại sao vũ trụ lại trơn tru như vậy? Đây là một thí dụ của sự áp dụng điều được gọi là nguyên tắc vị nhân chủng, có thể được diễn tả bằng câu "Chúng ta thấy vũ trụ như ngày nay bởi vì chúng ta hiện hữu."

Có hai phiên bản của nguyên tắc vị nhân chủng, nguyên tắc yếu và nguyên tắc mạnh. Nguyên tắc vị nhân chủng yếu nói rằng trong một vũ trụ lớn hoặc vô hạn về không gianthời gian, các điều kiện cần thiết cho sự phát triển đời sống thông minh sẽ chỉ đạt được trong một số khu vực giới hạn về không gianthời gian. Các sinh vật thông minh trong những khu vực này do đó sẽ không bị ngạc nhiên nếu họ quan sát thấy rằng nơi chốn của họ trong vũ trụ thỏa mãn những điều kiện cần thiết cho sự hiện hữu của họ. Nó hơi giống như một người giầu sinh sống trong một khu nhà giầu không nhìn thấy sự nghèo khó nào cả.

Một thí dụ của việc sử dụng nguyên tắc vị nhân chủng yếu là để "giải thích" tại sao vụ nổ lớn đã xảy ra mười ngàn triệu năm về trước -- nó cần thời gian dài như thế để các sinh vật thông minh tiến hóa. Như đã được giải thích ở trên, một thế hệ ban đầu các ngôi sao trước hết phải hình thành. Những ngôi sao này đã biến đổi một số khinh khí và helium nguyên thủy thành các nguyên tố như carbon và dưỡng khí, từ đó chúng ta được cấu tạo. Các ngôi sao sau đó nổ như những vụ nổ siêu tân tinh, và những mảnh vụn của chúng làm thành những ngôi sao khác và các hành tinh, trong số đó có các ngôi sao và hành tinh của Thái Dương Hệ chúng ta, khoảng năm ngàn triệu năm tuổi. Một hoặc hai ngàn triệu năm đầu của sự hiện hữu của trái đất đã quá nóng cho sự phát triển bất cứ cái gì phức tạp. Khoảng ba ngàn triệu năm còn lại đã âm ỉ tiến trình tiến hóa sinh học, đã từ những sinh vật đơn giản nhất đưa tới những sinh vật có khả năng đo lường thời gian ngược trở lại vụ nổ lớn.

Ít ai tranh cãi về sự hợp lý hoặc ích lợi của nguyên tắc vị nhân chủng yếu. Tuy nhiên, vài người còn đi xa hơn nhiều và đề xuất một loại nguyên tắc vị nhân chủng mạnh. Theo thuyết này, hoặc có nhiều vũ trụ khác nhau hoặc nhiều khu vực khác nhau trong một vũ trụ duy nhất, mỗi khu vực có hình dạng sơ khởi riêng và, có thể, có những bộ định luật khoa học riêng. Trong hầu hết các vũ trụ này những điều kiện sẽ không thích hợp cho sự phát triển các sinh vật phức tạp; chỉ trong một số ít các vũ trụ giống như vũ trụ của chúng ta các sinh vật thông minh mới phát triển và đặt ra câu hỏi: "Tại sao vũ trụ lại như chúng ta nhìn thấy?" Câu trả lời khi đó sẽ đơn giản: Nếu nó khác, chúng ta sẽ không ở đây!

Các định luật khoa học, như chúng ta biết hiện nay, chứa nhiều con số căn bản, như cỡ các điện tích của điện tử và tỉ số các khối lượng của proton và điện tử. Chúng ta không thể, ít ra là vào lúc này, từ lý thuyết tiên đoán được các trị số của những con số này -- chúng ta phải tìm ra chúng bằng sự quan sát. Có thể rằng một ngày nào đó chúng ta sẽ khám phá ra một lý thuyết thống nhất hoàn chỉnh tiên đoán được tất cả những trị số đó, nhưng cũng có thể rằng một vài hoặc tất cả những trị số đó thay đổi từ vũ trụ này với vũ trụ khác hoặc bên trong một vũ trụ duy nhất. Sự kiện đáng chú ý là các trị số của những con số này có vẻ đã được điều chỉnh rất tỉ mỉ để làm cho sự phát triển đời sống có thể xảy ra. Chẳng hạn nếu điện tích của điện tử chỉ khác đi chút ít, các ngôi sao hoặc đã không thể đốt khinh khí và helium, hoặc nếu không chúng đã không nổ. Dĩ nhiên, có thể có những hình thức đời sống thông minh khác, ngay cả các nhà văn viết truyện khoa học giả tưởng cũng không tưởng tượng nổi, không đòi hỏi ánh sáng của một ngôi sao như mặt trời hoặc những nguyên tố hóa học nặng hơn được cấu tạo ở các ngôi sao và bị bắn trở lại vào không gian khi các ngôi sao nổ. Tuy nhiên, có vẻ rõ ràng là có một số tương đối ít các trị số cho các con số cho phép sự phát triển của bất cứ hình thức đời sống thông minh nào. Hầu hết các bộ trị số sẽ đưa tới những vũ trụ mà trong đó, mặc dù chúng có thể rất đẹp, sẽ không chứa sinh vật để chiêm ngưỡng cái đẹp đó. Người ta có thể coi đây như là bằng chứng của một mục tiêu thần thánh trong sự Sáng Thế và sự lựa chọn những định luật khoa học hoặc như sự hỗ trợ cho nguyên tắc vị nhân chủng mạnh.

Có một số những phản đối mà người ta có thể nêu lên đối với nguyên tắc vị nhân chủng mạnh như một sự giải thích trạng thái của vũ trụ đã được quan sát. Trước hết, theo ý nghĩa nào mà tất cả những vũ trụ khác nhau này có thể được nói là hiện hữu? Nếu chúng thực sự tách biệt với nhau, những gì xảy ra trong một vũ trụ khác có thể không có những hậu quả khả dĩ quan sát được trong vũ trụ của chúng ta. Do đó chúng ta phải sử dụng nguyên tắc tiết kiệm và loại chúng khỏi lý thuyết. Nếu, mặt khác, chúng chỉ là những khu vực khác nhau của một vũ trụ duy nhất, các định luật khoa học sẽ như nhau trong mỗi khu vực, bởi vì nếu không người ta không thể di chuyển liên tục từ một khu vực này sang một khu vực khác. Trong trường hợp này, sự khác biệt duy nhất giữa các khu vực sẽ là hình dạng sơ khởi của chúng và do đó nguyên tắc vị nhân chủng mạnh sẽ giảm xuống thành nguyên tắc yếu.

Một sự phản đối thứ nhì đối với nguyên tắc vị nhân chủng mạnh là nó chống lại ngọn triều của toàn thể lịch sử khoa học. Chúng ta đã tiến triển từ các môn vũ trụ học của Ptolemy và những người đi trước ông, coi trái đất là trung tâm, qua vũ trụ học của Copernicus và Galileo, coi mặt trờitrung tâm, tới hình ảnh thời nay trong đó trái đất là một hành tinh cỡ trung bình quay chung quanh một ngôi sao cỡ trung bình ở ngoài ven của một thiên hà xoắn ốc bình thường, chính thiên hà này cũng chỉ là một trong khoảng một triệu triệu thiên hà trong vũ trụ có thể quan sát được. Vậy mà nguyên tắc vị nhân chủng mạnh nói rằng toàn thể kiến trúc rộng lớn này hiện hữu giản dị để phục vụ chúng ta. Điều này thật khó mà tin được. Thái Dương Hệ này chắc chắn là một tiền đề cho sự hiện hữu của chúng ta, và người ta có thể nới rộng điều này cho toàn thể thiên hà của chúng ta để cho phép một thế hệ các ngôi sao trước đây tạo ra những nguyên tố nặng hơn. Nhưng có vẻ không có nhu cầu nào cho tất cả những thiên hà khác, cũng như để cho vũ trụ đồng nhất và tương tự ở mọi hướng trên một tầm mức lớn.

Người ta sẽ cảm thấy hài lòng hơn về nguyên tắc vị nhân chủng, ít ra là ở thể yếu, nếu người ta có thể chứng tỏ rằng một số các hình dạng sơ khởi khác nhau gán cho vũ trụ sẽ phải tiến hóa để sản xuất một vũ trụ như cái vũ trụchúng ta quan sát. Nếu trường hợp này đúng, một vũ trụ phát triển từ một loại những điều kiện sơ khởi tình cờ nào đó sẽ phải chứa đựng một số khu vực trơn tru và đồng đềuthích hợp cho sự tiến hóa của đời sống thông minh. Mặt khác, nếu tình trạng sơ khởi của vũ trụ phải được lựa chọn một cách hết sức thận trọng để đưa tới cái giống như những gì chúng ta nhìn thấy chung quanh chúng ta, vũ trụ sẽ khó chứa đựng bất cứ khu vực nào trong đó đời sống sẽ xuất hiện. Trong mô hình nổ lớn nóng được mô tả ở trên, không có đủ thời gianvũ trụ ban đầu để nhiệt truyền từ khu vực này sang khu vực khác. Điều này có nghĩa trạng thái ban đầu của vũ trụ sẽ phải có nhiệt độ đúng y như nhau ở mọi nơi để giải thích sự kiện rằng nền sóng ngắn có cùng nhiệt độ ở mọi hướng mà chúng ta nhìn. Nhịp độ bành trướng ban đầu cũng sẽ phải được lựa chọn thật chính xác để nhịp độ bành trướng sẽ gần sát với nhịp độ tới hạn cần thiết để tránh suy sụp trở lại. Điều này có nghĩa là trạng thái sơ khởi của vũ trụ quả thật đã phải được lựa chọn thật cẩn thận nếu mô hình nổ lớn nóng là đúng từ lúc khởi thủy của thời gian. Sẽ rất khó giải thích tại sao vũ trụ đã phải bắt đầu đúng như vậy, trừ phi đó là hành động của một Thượng Đế muốn tạo ra những sinh vật như chúng ta.

Trong một cố gắng để tìm ra một mô hình vũ trụ trong đó nhiều hình dạng sơ khởi khác nhau có thể đã tiến hóa tới tình trạng như vũ trụ hiện nay, một khoa học gia tại Viện Kỹ Thuật Học Massachusetts (MIT), Alan Guth, đã cho rằng vũ trụ ban đầu có thể đã trải qua một thời kỳ bành trướng rất nhanh. Sự bành trướng này được gọi là "lạm phát," nghĩa là có một lúc vũ trụ đã bành trướng theo một nhịp độ ngày càng tăng thay vì nhịp độ giảm dần như ngày nay. Theo Guth, bán kính của vũ trụ đã gia tăng gấp một triệu triệu triệu triệu triệu (số 1 với ba mươi số không theo sau) lần chỉ trong vòng một phần nhỏ của một giây.

Guth cho rằng vũ trụ đã khởi đầu từ vụ nổ lớn trong một tình trạng rất nóng, nhưng hơi hỗn loạn. Những nhiệt độ cao này có nghĩa rằng các hạt trong vũ trụ đã di chuyển rất nhanh và đãõ có các năng lượng cao. Như chúng ta đã thảo luận trước đây, người ta sẽ trông đợi rằng ở những nhiệt độ cao như vậy các lực hạt nhân mạnh và yếu và lực điện từ sẽ thống nhất tất cả với nhau thành một lực duy nhất. Khi vũ trụ bành trướng, nó sẽ nguội lại, và các năng lượng hạt sẽ giảm đi. Cuối cùng sẽ có điều được gọi là một sự chuyển tiếp pha (phase transition) và sự đối xứng giữa các lực sẽ bị phá vỡ: lực mạnh sẽ trở nên khác với các lực yếu và điện từ. Một thí dụ thông thường của một sự chuyển tiếp pha là sự đông đá của nước khi bạn làm nguội nó đi. Nước lỏng có tính cách đối xứng, giống nhau ở mọi điểm và mọi hướng. Tuy nhiên, khi các tinh thể nước đá hình thành, chúng sẽ có những vị trí xác định và sẽ được sắp xếp theo một hướng nào đó. Điều này phá vỡ sự đối xứng của nước.

Trong trường hợp nước, nếu người ta cẩn thận, người ta có thể làm "siêu lạnh" nó, nghĩa là, người ta có thể giảm nhiệt độ xuống dưới điểm đông đá (0o C) mà không làm đông đá. Guth cho rằng vũ trụ có thể đã cư xử theo một đường lối tương tự: nhiệt độ có thể hạ xuống dưới trị số tới hạn mà sự đối xứng giữa các lực không bị phá vỡ. Nếu điều này xảy ra, vũ trụ sẽ ở trong một trạng thái không bền, với nhiều năng lượng hơn là nếu sự đối xứng đã bị phá vỡ. Năng lượng phụ trội đặc biệt này có thể được chứng tỏ là có một hậu quả phản trọng lực: nó sẽ phản ứng giống như hằng số vũ trụ mà Einstein đã đưa vào thuyết tương đối tổng quát khi ông cố xây dựng một mô hình tĩnh cho vũ trụ. Bởi vì vũ trụ đang bành trướng giống như trong một mô hình nổ lớn nóng, tác dụng đẩy của hằng số vũ trụ này do đó đã làm cho vũ trụ bành trướng với một nhịp độ ngày càng tăng. Ngay cả trong những khu vực có nhiều hạt vật chất hơn mức trung bình, sức hấp dẫn trọng lực của vật chất sẽ bị đè bẹp bởi sức đẩy của tác dụng hằng số vũ trụ. Do đó những khu vực này cũng sẽ bành trướng một cách quá lạm phát. Khi chúng bành trướng và các hạt vật chất trở nên càng xa nhau, sẽ còn một vũ trụ bành trướng khó còn chứa đựng hạt nào mà vẫn còn ở trong tình trạng siêu lạnh. Bất cứ sự bất thường nào trong vũ trụ sẽ giản dị trở nên trơn tru do sự bành trướng, giống như những vết nhăn trên một quả bóng trở nên nhẵn nhụi khi người ta thổi phồng nó lên. Do đó tình trạng trơn tru và đồng đều của vũ trụ có thể đã tiến hóa từ nhiều tình trạng sơ khởi không đồng đều khác nhau.

Trong một vũ trụ như vậy, trong đó sự bành trướng được gia tốc bởi hằng số vũ trụ thay vì chậm lại bởi hấp dẫn trọng lực của vật chất, sẽ có đủ thời gian để ánh sáng di chuyển từ một khu vực này sang một khu vực khác trong vũ trụ sơ khai. Điều này có thể cung cấp một giải đáp cho vấn đề, được nêu lên trước đây, là tại sao những khu vực khác nhau trong vũ trụ ban đầu đã có cùng các tính chất. Hơn nữa, nhịp độ bành trướng của vũ trụ sẽ tự động trở thành rất gần với nhịp độ tới hạn định đoạt bởi mật độ năng lượng của vũ trụ. Điều này do đó có thể giải thích tại sao nhịp độ bành trướng vẫn còn gần với nhịp độ tới hạn, mà không phải giả định rằng nhịp bành trướng ban đầu của vũ trụ đã được lựa chọn thật cẩn thận.

Ý niệm lạm phát có thể cũng giải thích được tại sao có nhiều vật chất trong vũ trụ như vậy. Có vào khoảng mười triệu triệu triệu triệu triệu triệu triệu triệu triệu triệu triệu triệu triệu triệu (số 1 với 80 số không theo sau) hạt ở trong khu vực vũ trụchúng ta có thể quan sát. Chúng tất cả đã từ đâu đến? Câu trả lời là, trong thuyết lượng tử, các hạt có thể được tạo ra từ năng lượng dưới hình thức những cặp hạt/phản hạt. Nhưng điều đó lại đặt ra vấn đề năng lượng từ đâu mà ra. Câu trả lờinăng lượng tổng cộng của vũ trụ vừa đúng bằng số không. Vật chất trong vũ trụ được cấu tạo bởi năng lượng dương. Tuy nhiên, vật chất tất cả đều tự hấp dẫn bởi trọng lực. Hai mẩu vật chất nằm gần nhau có ít năng lượng hơn là cũng hai mẩu đó nằm cách xa nhau, bởi vì người ta phải tốn năng lượng để tách rời chúng chống lại hấp lực kéo chúng lại gần nhau. Như vậy, theo một nghĩa nào đó, trọng trường có năng lượng âm. Trong trường hợp một vũ trụ gần như đồng đều trong không gian, người ta có thể chứng tỏ rằng năng lượng hấp dẫn âm này vừa đúng triệt tiêu năng lượng dương biểu hiện bởi vật chất. Do đó năng lượng tổng cộng của vũ trụ là số không.

Mà hai lần số không cũng là số không. Như vậy vũ trụ có thể tăng gấp đôi số năng lượng vật chất dương và cũng tăng gấp đôi năng lượng hấp dẫn âm mà không vi phạm sự bảo tồn năng lượng. Điều này không xảy ra trong sự bành trướng bình thường của vũ trụ trong đó mật độ năng lượng của vật chất giảm đi khi vũ trụ trở nên lớn hơn. Tuy nhiên, nó xảy ra trong sự bành trướng quá lạm phát bởi vì mật độ năng lượng của tình trạng siêu lạnh vẫn không đổi trong khi vũ trụ bành trướng: khi vũ trụ lớn gấp đôi, năng lượng vật chất dương và năng lượng hấp dẫn âm cả hai đều tăng gấp đôi, do đó năng lượng tổng cộng vẫn bằng 0. Trong giai đoạn quá lạm phát, vũ trụ gia tăng độ lớn bởi một lượng rất lớn. Do đó số năng lượng tổng cộng để làm ra các hạt trở nên rất lớn.

Vũ trụ ngày nay không bành trướng theo kiểu quá lạm. Như vậy phải có một cơ chế nào đó đã loại trừ hằng số vũ trụ rất lớn và do đó thay đổi nhịp độ bành trướng từ nhanh dần thành chậm dần bởi hấp lực, như chúng ta có ngày nay. Trong sự bành trướng quá lạm phát người ta có thể trông đợi rằng cuối cùng sự đối xứng giữa các lực sẽ bị phá vỡ, giống như nước siêu lạnh cuối cùng luôn luôn đông lại. Năng lượng phụ trội của tình trạng đối xứng không bị phá vỡ khi đó sẽ được giải phóng và sẽ làm nóng trở lại vũ trụ tới một nhiệt độ chỉ dưới nhiệt độ tới hạn cho sự đối xứng giữa các lực. Vũ trụ khi đó sẽ tiếp tục bành trướng và nguội lại giống như mô hình nổ lớn nóng, nhưng bây giờ sẽ có một sự giải thích tại sao vũ trụ lại bành trướng ở đúng nhịp độ tới hạn và tại sao các khu vực khác nhau lại có cùng nhiệt độ.

Trong đề xuất sơ khởi của Guth sự chuyển tiếp pha được coi như xảy ra bất ngờ, hơi giống như sự xuất hiện của các tinh thể nước đá trong nước thật lạnh. Ông đã cho rằng các "bong bóng" của giai đoạn mới của sự đối xứng bị phá vỡ đã hình thành trong giai đoạn trước, giống như những bong bóng hơi nước bị bao quanh bởi nước sôi. Những bong bóng được cho là sẽ bành trướng và kết hợp với nhau cho tới khi toàn thể vũ trụ ở trong giai đoạn mới. Điều trục trặc là, như tôi và vài người khác đã vạch ra, vũ trụ đã bành trướng nhanh đến độ dù cho các bong bóng lớn lên với tốc độ ánh sáng, chúng sẽ di chuyển rời xa nhau và do đó không thể kết hợp được. Vũ trụ sẽ ở trong một tình trạng không đồng đều, với vài khu vực vẫn còn có sự đối xứng giữa những lực khác nhau. Một mô hình vũ trụ như vậy sẽ không phù hợp với những gì mà chúng ta thấy.

Vào tháng Mười năm 1981, tôi đã đi Moscow để tham dự một hội nghị về hấp lực lượng tử, Sau hội nghị tôi đã tổ chức một cuộc hội thảo về mô hình lạm phát và những vấn nạn của nó tại Viện Thiên Văn Sternberg. Trước đó, tôi đã nhờ người khác đọc giùm những bài viết của tôi, bởi vì hầu hết mọi người không hiểu được giọng nói của tôi. Nhưng đã không có thì giờ để sửa soạn cuộc hội thảo này, do đó tôi đã tự đọc, với một trong số những sinh viên tốt nghiệp của tôi nhắc lại lời tôi nói. Cách đó rất tốt, và đã giúp tôi tiếp xúc được nhiều hơn với thính giả của tôi. Trong đám thính giả có một người Nga trẻ tuổi, Andrei Linde, thuộc Viện Lebedev ở Moscow. Ông nói sự khó khăn về chuyện các bong bóng không thể kết hợp với nhau có thể tránh được nếu các bong bóng lớn đến độ khu vực vũ trụ của chúng ta tất cả đều được chứa đựng bên trong một bong bóng duy nhất. Để điều này xảy ra, sự thay đổi từ tình trạngï đối xứng tới tình trạngï đối xứng bị phá vỡ phải đã diễn ra rất chậm chạp bên trong bong bóng, nhưng điều này hầu như có thể xảy ra theo các lý thuyết thống nhất lớn. Ý kiến của Linde về một sự phá vỡ chậm sự đối xứng tỏ ra rất tốt, nhưng sau đó tôi nhận thấy rằng những bong bóng của ông ta sẽ phải lớn hơn cỡ của vũ trụ lúc đó! Tôi đã chứng tỏ rằng đúng ra sự đối xứng sẽ sụp đổ tại mọi nơi cùng một lúc, thay vì chỉ bên trong các bong bóng. Điều này sẽ đưa tới một vũ trụ đồng nhất, như chúng ta quan sát. Tôi đã rất hứng khởi bởi ý tưởng này và đã thảo luận nó với một trong những sinh viên của tôi, Ian Moss. Tuy nhiên, với tư cách một người bạn của Linde, tôi đã hơi bối rối, khi sau đó tôi nhận được một luận văn của ông, do một đặc san khoa học gửi tới, và hỏi liệu có thích hợp để đăng hay không. Tôi đã trả lời rằng có khuyết điểm này về chuyện các bong bóng lớn hơn vũ trụ, nhưng ý niệm căn bản về một phá vỡ chậm của sự đối xứng là điều rất tốt. Tôi đã khuyến cáo là cứ đăng nguyên văn tài liệu bởi vì Linde sẽ cần vài tháng để sửa lại, vì bất cứ cái gì ông gửi cho Tây phương cũng phải qua cơ quan kiểm duyệt của Xô Viết, vốn không chuyên môn lắm và cũng không nhanh nhẹn đối với các tài liệu khoa học. Thay vào đó, tôi đã viết một tài liệu ngắn cùng với Ian Moss cũng trong đặc san này trong đó chúng tôi đã vạch ra vấn nạn này về bong bóng và cho thấy nó có thể được giải quyết như thế nào.

Một ngày sau khi từ Moscow trở về, tôi khởi hành đi Philadelphia, nơi tôi sẽ nhận một huy chương do Viện Franklin trao tặng. Cô thư ký của tôi, Judy Fella, đã dùng sự khả ái để thuyết phục hãng hàng không British Airways cho nàng và tôi hai chỗ ngồi miễn phí trên một chuyến máy bay Concord như là một hành động quảng cáo. Tuy nhiên, trên đường tới phi trường tôi bị một trận mưa lớn gây chậm trễ và đã bị lỡ chuyến bay. Dù sao, cuối cùng tôi cũng đã tới được Philadelphia để nhận huy chương. Rồi tôi được yêu cầu tổ chức một buổi hội thảo về vũ trụ lạm phát tại trường Đại Học Drexel ở Philadelphia. Tôi đã nói về những vấn nạn của vũ trụ lạm phát, giống như đã nói ở Moscow.

Một ý tưởng rất giống với ý tưởng của Linde đã được đưa ra một cách độc lập một vài tháng sau bởi Paul Steinhardt và Andreas Albrecht thuộc trường đại học Pennsylvania. Họ hiện giờ được coi như cùng với Linde có công nghĩ ra cái được gọi là "mô hình lạm phát mới," căn cứ vào ý tưởng về một phá vỡ chậm của sự đối xứng. (Mô hình lạm phát cũ là đề xuất nguyên thủy của Guth về sự phá vỡ đối xứng nhanh với sự hình thành các bong bóng.)

Mô hình lạm phát mới là một cố gắng tốt để giải thích tại sao vũ trụ lại như ngày nay. Tuy nhiên, tôi và vài người khác đã chứng tỏ rằng, ít nhất trong hình thức nguyên thủy, nó đã tiên đoán những biến đổi lớn lao hơn nhiều về nhiệt độ của bối cảnh bức xạ vi ba so với kết quả được quan sát. Công trình sau này cũng đã đặt ra sự ngờ vực về chuyện liệu có thể có một chuyển tiếp pha ở chính vũ trụ ban đầu hay không. Theo quan điểm cá nhân của tôi, mô hình lạm phát mới hiện giờ là một lý thuyết khoa học đã chết, mặc dù nhiều người có vẻ như đã không nghe nói về cái chết của nó và vẫn còn đang viết tài liệu như thể nó sống được. Một mô hình tốt hơn, được gọi là mô hình lạm phát hỗn loạn, đã được đưa ra bởi Linde năm 1983. Trong mô hình này không có chuyển tiếp pha hoặc siêu lạnh. Thay vào đó, có một trường số quay 0, mà, bởi vì những biến đổi lượng tử, sẽ có những trị sốù lớn ở vài khu vực của vũ trụ ban đầu. Năng lượng của trường ở những khu vực đó sẽ phản ứng như một hằng số vũ trụ. Nó sẽ có một hiệu ứng hấp lực đẩy, và do đó làm cho những khu vực đó bành trướng theo lối lạm phát. Khi chúng bành trướng, năng lượng của trường bên trong chúng sẽ từ từ giảm bớt cho tới khi sự bành trướng lạm phát thay đổi sang một sự bành trướng như trong mô hình nổ lớn nóng. Một trong số những khu vực này sẽ trở thành những gì mà hiện nay chúng ta thấy với tính cách vũ trụ có thể quan sát được. Mô hình này có tất cả những ưu điểm của những mô hình lạm phát trước đây, nhưng nó không tùy thuộc vào một chuyển tiếp pha khó tin, và hơn nữa nó có thể cho một tầm cỡ vừa phải cho những biến đổi về nhiệt độ của bối cảnh bức xạ vi ba vốn phù hợp với sự quan sát.

Công trình về các mô hình lạm phát đã chứng tỏ rằng tình trạng hiện giờ của vũ trụ có thể đã nổi lên từ một con số khá lớn các hình dạng sơ khởi khác nhau. Điều này rất quan trọng, bởi vì nó chứng tỏ rằng tình trạng ban đầu của phần vũ trụchúng ta đang sống đã không được lựa chọn với sự thận trọng lớn lao. Do đó chúng ta có thể, nếu chúng ta muốn, sử dụng nguyên tắc vị nhân chủng yếu để giải thích tại sao vũ trụ trông giống như hiện nay. Tuy nhiên, nó không thể là trường hợp cho rằng mọi hình dạng ban đầu sẽ đưa tới một vũ trụ giống như vũ trụ chúng ta quan sát. Người ta có thể chứng tỏ điều này bằng cách xem xét một tình trạng rất khác đối với vũ trụ hiện thời, thí dụ, một tình trạng rất xô bồ và bất thường. Người ta có thể sử dụng những định luật khoa học để quay vũ trụ ngược thời gian để xác định hình dạng của nó vào những lúc đầu. Theo những định lý về điểm kỳ dị của thuyết tương đối tổng quát cổ điển, cũng vẫn có một điểm kỳ dị nổ lớn. Nếu bạn khiến cho một vũ trụ như vậy tiến hóa theo thời gian, theo các định luật khoa học, cuối cùng bạn sẽ có một tình trạng xô bồ và bất thường mà bạn đã khởi đầu. Như vậy đã phải có những hình dạng ban đầu không đưa tới một vũ trụ như chúng ta thấy ngày nay. Do đó ngay cả mô hình lạm phát cũng không cho chúng ta biết tại sao hình dạng sơ khởi đã không phát sinh ra cái khác biệt nhiều với những gì chúng ta quan sát. Chúng ta có phải quay trở lại nguyên tác vị nhân chủng để tìm một sự giải thích hay không? Phải chăng tất cả chỉ là một tình cờ may mắn? Điều đó sẽ có vẻ là một ý kiến đáng thất vọng, một sự phủ định mọi hy vọng của chúng ta để hiểu biết về trật tự tiềm ẩn của vũ trụ.

Để tiên đoán việc vũ trụ đã phải khởi đầu như thế nào, người ta cần những định luậtgiá trị ở lúc khởi đầu thời gian. Nếu thuyết tương đối tổng quát cổ điển là đúng, những định lý điểm kỳ dị mà Roger Penrose và tôi đã chứng minh cho thấy rằng sự khởi đầu của thời gian sẽ phải ở một điểm mật độ vô hạn và độ cong không-thời gian vô hạn. Mọi định luật khoa học đã biết sẽ sụp đổ ở một điểm như vậy. Người ta có thể giả thử rằng có những định luật mới có giá trị ở những điểm kỳ dị, nhưng sẽ rất khó khăn để hình thành những định luật như vậy tại những điểm bất bình thường như vậy, và chúng ta sẽ không có sự hướng dẫn từ những quan sát để xem những định luật đó có thể như thế nào. Tuy nhiên, những gì các định lý điểm kỳ dị thực sự cho thấy là trường hấp lực trở thành mạnh đến độ các hiệu quả hấp lực lượng tử trở thành quan trọng: lý thuyết cổ điển không còn là một mô tả tốt về vũ trụ. Do đó người ta phải sử dụng một thuyết trọng lực lượng tử để thảo luận chính những giai đoạn đầu của vũ trụ. Như chúng ta sẽ thấy, những định luật khoa học thông thường có thể có giá trịmọi nơi trong thuyết lượng tử, kể cả lúc khởi đầu thời gian: không cần phải đề xuất những định luật mới cho các điểm kỳ dị, bởi vì không cần có bất cứ điểm kỳ dị nào trong thuyết lượng tử.

Chúng ta chưa có một lý thuyết trọn vẹnphù hợp để tổng hợp cơ học lượng tử và hấp lực. Tuy nhiên, chúng ta khá chắc chắn về vài đặc tính mà một thuyết thống nhất như vậy phải có. Một đặc điểm là nó phải hội nhập ý kiến của Feynman để hình thành thuyết lượng tử liên quan đến suốt lịch sử vũ trụ. Theo phương pháp này, một hạt không phải chỉ có một lịch sử duy nhất, như trong một lý thuyết cổ điển. Thay vào đó, nó được coi như đi theo mọi con đường có thể có trong không-thời gian, và với mỗi lịch sử trong số các lịch sử này, có liên kết một cặp số, một số chỉ cỡ của một sóng và số kia chỉ vị trí của nó trong chu kỳ (pha) của nó. Xác suất để hạt đó đi qua một điểm đặc biệt nào đó được tìm thấy bằng cách cộng các sóng kết hợp với mọi lịch sử có thể đi qua điểm đó. Tuy nhiên, khi người ta thực sự cố thực hiện những tổng số này, người ta gặp phải những khó khăn kỹ thuật trầm trọng. Cách duy nhất để tránh những khó khăn này là đi theo sự chỉ dẫn đặc biệt: Người ta phải cộng tất cả những sóng cho các lịch sử hạt không nằm trong thời gian "thực" mà bạn và tôi trải qua nhưng xảy ra trong cái được gọi là thời gian tưởng tượng. Thời gian tưởng tượng có thể nghe như khoa học giả tưởng nhưng thực ra nó là một ý niệm toán học được định nghĩa rõ ràng. Nếu chúng ta lấy bất cứ con số bình thường nào (hay số "thực") và nhân với chính nó, kết quả là một số dương. (Thí dụ, 2 nhân với 2 là 4, nhưng -2 nhân với -2 cũng là 4). Tuy nhiên, có những con số đặc biệt (gọi là ảo) cho những số âm khi được nhân bởi chính nó. (Số được gọi là i, khi nhân với chính nó, cho ta -1, 2i nhân với chính nó cho ta -4, và cứ thế.) Để tránh những khó khăn kỹ thuật với tổng số lịch sử của Feynman, người ta phải dùng thời gian tưởng tượng. Nghĩa là, vì các mục đích tính toán người ta phải dùng các số ảo để đo thời gian, thay vì các số thật. Điều này có một hậu quả đáng chú ý về không-thời gian: sự phân biệt giữa thời giankhông gian biến mất hoàn toàn. Một không-thời gian trong đó những biến cố có những trị giá ảo về tọa độ thời gian được gọi là thuộc hình học Euclide, gọi theo tên của nhà toán học Hy Lạp Euclide, người đã lập ra sự nghiên cứu hình học của các bề mặt hai chiều. Những gì mà hiện giờ chúng ta gọi là không thời gian theo hình học Euclide rất tương tự ngoại trừ nó có bốn chiều thay vì hai chiều. Trong không-thời gian Euclide không có sự khác biệt giữa chiều thời gian và các chiều không gian. Mặt khác, trong không-thời gian thực, trong đó các biến cố được gán cho những trị số thực, bình thường về tọa độ thời gian, rất dễ nhìn ra sự khác biệt -- hướng thời gian ở mọi điểm nằm bên trong hình nón ánh sáng, và các chiều không gian nằm bên ngoài. Trong bất cứ trường hợp nào, nói về cơ học lượng tử thường ngày, chúng ta có thể coi việc chúng ta sử dụng thời gian tưởng tượng và không-thời gian Euclide như chỉ là một công cụ toán học (hay mánh lới) để tính toán những giải đáp về không-thời gian thực.

Một đặc điểm thứ nhì mà chúng ta nghĩ phải nằm trong bất cứ lịch sử tối hậu nào là ý tưởng của Einstein cho rằng trường hấp lực được biểu diễn bởi không-thời gian cong: những hạt cố đi theo cái gần gũi nhất với một con đường thẳng trong một không gian cong, nhưng bởi vì không-thời gian không phẳng, những đường đi của chúng có vẻ bị cong, như thể bị uốn cong bởi một trường hấp lực. Khi chúng ta áp dụng tổng số lịch sử của Feynman cho quan điểm của Einstein về hấp lực, sự tương tự về lịch sử của một hạt hiện giờ là một không-thời gian cong hoàn toàn biểu hiện lịch sử của toàn thể vũ trụ. Để tránh những khó khăn kỹ thuật trong việc tính toán thực sự tổng số lịch sử, những không-thời gian cong này phải được coi như thuộc hình học Euclide. Nghĩa là, thời gian là ảo và không thể phân biệt được với những chiều trong không gian. Để tính toán xác suất tìm ra một không-thời gian thực với một đặc tính chắc chắn nào đó, như nhìn giống nhau tại mọi điểm và theo mọi hướng, người ta cộng tất cả những sóng kết hợp với mọi lịch sửđặc điểm đó.

Trong thuyết tương đối tổng quát cổ điển, có nhiều không-thời gian cong khác nhau, mỗi cái tương ứng với một tình trạng sơ khởi khác nhau của vũ trụ. Nếu chúng ta biết tình trạng sơ khởi của vũ trụ, chúng ta sẽ biết trọn lịch sử của nó. Tương tự, trong thuyết hấp lực lượng tử, có nhiều tình trạng lượng tử có thể có cho vũ trụ. Một lần nữa, nếu chúng ta biết các không-thời gian cong theo hình học Euclide trong tổng số lịch sử phản ứng ở những thời gian ban đầu, chúng ta sẽ biết tình trạng lượng tử của vũ trụ.

Trong thuyết hấp lực cổ điển, căn cứ vào không-thời gian thực, chỉ có hai cách mà vũ trụ có thể phản ứng: hoặc nó đã tồn tại trong một thời gian vô tận, hoặc nếu không thì nó đã có một khởi đầu tại một điểm kỳ dị ở một thời điểm nhất định nào đó trong quá khứ. Trong thuyết hấp lực lượng tử, mặt khác, một khả dĩ thứ ba nổi lên. Bởi vì người ta sử dụng không-thời gian Euclide, trong đó chiều thời gian có cùng căn bản như các chiều trong không gian, không-thời gian có thể hữu hạn mà vẫn không có những điểm kỳ dị để hình thành một biên giới hoặc bờ. Không-thời gian sẽ giống như bề mặt của trái đất, chỉ khác là có thêm hai chiều nữa. Bề mặt của trái đất là hữu hạn nhưng nó không có một biên giới hoặc bờ: nếu bạn khởi đi về hướng mặt trời lặn, bạn không rơi ra ngoài bờ hoặc gặp một điểm kỳ dị. (Tôi biết, bởi vì tôi đã đi vòng quanh thế giới!)

Nếu không-thời gian Euclide rút ngắn lại tới thời gian tưởng tượng vô hạn, hoặc khởi đầu tại một điểm kỳ dị trong thời gian tưởng tượng, chúng ta cũng có cùng vấn nạn như trong lý thuyết cổ điển khi muốn định rõ tình trạng sơ khởi của vũ trụ: chỉ có Trời mới biết vũ trụ đã bắt đầu như thế nào, nhưng chúng ta không thể đưa ra bất cứ lý do nào để cho rằng nó đã khởi sự bằng cách này thay vì bằng cách kia. Mặt khác, thuyết hấp lực lượng tử đã mở ra một sự khả dĩ mới, trong đó sẽ không có biên giới cho không-thời gian và do đó sẽ không cần định rõ phản ứng tại biên giới. Sẽ không có các điểm kỳ dị tại đó các định luật khoa học sụp đổ và không có bờ không-thời gian tại đó người ta sẽ phải kêu gọi Thượng Đế hoặc một định luật mới nào đó để đặt ra những điều kiện biên giới cho không-thời gian. Người ta có thể nói: "Điều kiện biên giới của vũ trụ là nó không có biên giới nào cả." Vũ trụ sẽ hoàn toàn tự chứa đựng và không bị ảnh hưởng bởi bất cứ cái gì bên ngoài nó. Nó không được tạo ra cũng không bị hủy diệt. Nó chỉ HIỆN HỮU.

Chính tại cuộc hội thảo ở Vatican như đã được đề cập ở trên, tôi đã đưa ra đầu tiên ý kiến rằng có thể thời giankhông gian cùng nhau làm thành một bề mặt hữu hạn về tầm cỡ nhưng đã không có biên giới hoặc bờ bến nào. Tuy nhiên, tài liệu của tôi hơi thiên về toán học, do đó những hàm ý của nó về vai trò của Thượng Đế trong sự sáng tạo ra vũ trụ lúc đó đã không được thừa nhận rộng rãi. Vào thời gian cuộc hội thảo Vatican, tôi đã không biết làm thế nào để đưa ý niệm "không biên giới" vào việc thực hiện những tiên đoán về vũ trụ. Tuy nhiên, tôi đã trải qua mùa hè sau đó tại trường đại học Santa Barbara của California. Tại đó, một người bạn và cũng là đồng nghiệp của tôi, Jim Hartle, đã nghiên cứu cùng với tôi những điều kiệnvũ trụ phải thỏa mãn nếu không-thời gian không có giới hạn. Khi tôi trở về Cambridge, tôi đã tiếp tục công việc này với hai trong số những nghiên cứu sinh của tôi, Julian Luttrel và Jonathan Halliwell.

Tôi cũng muốn nhấn mạnh rằng ý tưởng thời giankhông gian phải hữu hạn mà không có biên giới chỉ là một đề nghị: nó không thể được suy ra từ một nguyên tắc nào khác. Giống như bất cứ lý thuyết khoa học nào khác, nó có thể lúc đầu được đưa ra vì những lý do thẩm mỹ hoặc siêu hình, nhưng sự thử thách thực sự là liệu nó có khiến những tiên đoán phù hợp với sự quan sát hay không. Tuy nhiên, điều này rất khó xác định trong trường hợp hấp lực lượng tử, vì hai lý do. Trước hết, như sẽ được giải thích trong chương kế tiếp, chúng ta chưa biết chắc chắn đúng ra lý thuyết nào phối hợp một cách thành công thuyết tương đối tổng quát và cơ học lượng tử, mặc dù chúng ta biết hầu như rất nhiều về hình thức mà một lý thuyết như vậy phải có. Thứ nhì, bất cứ mô hình nào mô tả chi tiết toàn thể vũ trụ cũng sẽ quá phức tạp về phương diện toán học để chúng tathể tính toán đúng những tiên đoán. Do đó người ta phải thực hiện những giả thiếtước lượng được đơn giản hóa -- và ngay cả khi đó, vấn đề rút ra những tiên đoán vẫn còn là một vấn đề khó khăn.

Mỗi lịch sử trong tổng cộng lịch sử sẽ mô tả không phải chỉ không-thời gian mà cả mọi thứ trong đó, kể cả bất cứ sinh vật phức tạp nào như con người, là sinh vật có thể quan sát lịch sử của vũ trụ. Điều này có thể cung cấp một sự biện minh khác cho nguyên tắc vị nhân chủng, bởi vì nếu mọi lịch sử đều có thể xảy ra, thì chừng nào chúng ta hiện hữu trong một trong số những lịch sử đó, chúng ta có thể sử dụng nguyên tắc vị nhân chủng để giải thích tại sao vũ trụ lại được thấy như tình trạng của nó hiện nay. Ý nghĩa nào là đúng để có thể được gán cho những lịch sử khác, trong đó chúng ta không hiện hữu, là điều không rõ ràng. Tuy nhiên, quan điểm này về thuyết hấp lực lượng tử sẽ hài lòng hơn nhiều, nếu người ta có thể chứng tỏ rằng, dùng tổng số lịch sử, vũ trụ của chúng ta không phải chỉ là một trong những lịch sử có thể xảy ra nhưng là một trong những lịch sử có thể xảy ra nhất. Để làm điều này, chúng ta phải thực hiện việc cộng các lịch sử có thể xảy ra cho mọi không-thời gian Euclide không có biên giới.

Theo đề xuất không biên giới, người ta biết rằng cơ hội để vũ trụ được coi như đi theo hầu hết các lịch sử có thể xảy ra không đáng kể, nhưng có một nhóm đặc biệt các lịch sử có cơ hội xảy ra nhiều hơn các nhóm khác. Những lịch sử này có thể được hình dung như giống bề mặt của trái đất, với khoảng cách từ Bắc Cực đại diện thời gian tưởng tượng và cỡ của một vòng tròn cách một khoảng cố định từ Bắc Cực đại diện cỡ không gian của vũ trụ. Vũ trụ khởi đầu tại Bắc Cực như một điểm duy nhất. Khi người ta di chuyển về phía nam, các vòng tròn vĩ tuyến ở khoảng cách cố định từ Bắc Cực trở nên lớn hơn, tương ứng với vũ trụ bành trướng với thời gian tưởng tượng (Hình 8.1). Vũ trụ sẽ đạt tới một cỡ tối đa ở đường xích đạo và sẽ thu rút lại với thời gian tưởng tượng tăng lên tới một điểm duy nhất ở Nam Cực. Mặc dù vũ trụ sẽ có cỡ bằng 0 tại các cực Bắc và Nam, những điểm này sẽ không phải là các điểm kỳ dị. Các định luật khoa học sẽ có giá trị tại những điểm đó, cũng như chúng có giá trị tại Bắc và Nam Cực trên trái đất.

Tuy nhiên, lịch sử của vũ trụthời gian thực, trông sẽ rất khác. Ở vào khoảng mười hoặc hai mươi ngàn triệu năm về trước, nó sẽ có một cỡ tối thiểu, bằng với bán kính tối đa của lịch sử trong thời gian tưởng tượng. Ở những thời gian thực sau này, vũ trụ sẽ bành trướng như mô hình lạm phát hỗn loạn đề xuất bởi Linde (nhưng bây giờ người ta sẽ không phải giả sử rằng vũ trụ đã được tạo ra bằng cách nào đó trong tình trạng thích hợp). Vũ trụ sẽ bành trướng tới một cỡ rất lớn và cuối cùng nó sẽ suy sụp trở lại thành cái giống như một điểm kỳ dị trong thời gian thực. Như vậy, theo một ý nghĩa nào đó, tất cả chúng ta vẫn đi tới tận thế, dù cho chúng ta tránh xa các hố đen. Chỉ trong trường hợp chúng ta có thể hình dung vũ trụ theo thời gian tưởng tượng thì mới không có những điểm kỳ dị.

Nếu vũ trụ thực sự ở trong một tình trạng lượng tử như vậy, sẽ không có các điểm kỳ dị trong lịch sử của vũ trụ trong thời gian tưởng tượng. Do đó có vẻ rằng công trình mới đây hơn của tôi đã hoàn toàn phủ nhận các kết quả của công trình trước đây của tôi về các điểm kỳ dị. Nhưng, như nói ở trên, tầm quan trọng thực sự của các định lý điểm kỳ dị là chúng đã chứng tỏ rằng trường hấp lực phải trở nên mạnh đến độ các hậu quả hấp lực lượng tử không thể bị bỏ qua. Điều này do đó lại đưa tới ý niệm rằng vũ trụ có thể hữu hạn trong thời gian tưởng tượng nhưng không có các biên giới hoặc các điểm kỳ dị. Tuy nhiên, khi người ta quay trở lại thời gian thực trong đó chúng ta sinh sống, có vẻ vẫn sẽ có những điểm kỳ dị. Nhà du hành vũ trụ bất hạnh nào rơi vào một hố đen vẫn sẽ đi tới một kết cuộc khó chịu, chỉ khi nào ông ta sống trong thời gian tưởng tượng mới không gặp các điểm kỳ dị.

Điều này có thể gợi ý rằng cái được gọi là thời gian tưởng tượng thực rathời gian thực, và rằng điều mà chúng ta gọi là thời gian thực chỉ là một ảo ảnh của những tưởng tượng của chúng ta. Trong thời gian thực, vũ trụ có một khởi đầu và một kết cuộc ở các điểm kỳ dị để hình thành một biên giới cho không-thời gian và tại đó các định luật khoa học sụp đổ. Nhưng trong thời gian tưởng tượng, không có những điểm kỳ dị hoặc biên giới. Như vậy có thể những gì chúng ta gọi là thời gian tưởng tượng thực racăn bản hơn, và cái mà chúng ta gọi là thực chỉ là một ý niệmchúng ta tạo ra để giúp chúng ta mô tả những gì mà chúng ta nghĩ giống vũ trụ. Nhưng theo phương pháp mà tôi đã mô tả trong chương 1, một lý thuyết khoa học chỉ là một mô hình toán học mà chúng ta tạo ra để mô tả những quan sát của chúng ta: nó chỉ hiện hữu trong trí của chúng ta. Do đó thật là vô nghĩa khi hỏi: Cái nào là thật, thời gian "thật" hay thời gian "ảo"? Điều đóù giản dị chỉ là một vấn đề cái nào mô tả có ích hơn.

Người ta cũng có thể sử dụng tổng số các lịch sử, cùng với đề xuất không biên giới, để tìm ra những tính chất nào của vũ trụ có thể cùng xảy ra. Thí dụ, người ta có thể tính toán xác suất mà vũ trụ bành trướng gần như cùng nhịp độ ở mọi hướng khác nhau tại một thời điểm mà mật độ của vũ trụ có trị số hiện nay. Trong những mô hình được đơn giản hóa từng được quan sát cho tới nay, xác suất này hóa ra rất cao; nghĩa là, điều kiện không biên giới như đã được đề xuất đưa tới sự tiên đoán rằng rất có thể nhịp độ bành trướng hiện nay của vũ trụ hầu như giống nhau ở mọi hướng. Điều này phù hợp với những quan sát bức xạ nền sóng ngắn, chứng tỏ rằng nó có cường độ hầu như giống hệt nhau ở mọi hướng. Nếu vũ trụ đã bành trướng nhanh hơn ở vài hướng so với những hướng khác, cường độ của bức xạ ở những hướng đó sẽ bị giảm đi bởi một chuyển dịch thêm về phía đỏ.

Những tiên toán thêm về điều kiện không biên giới hiện đang được nghiên cứu. Một vấn đề đặc biệt đáng chú ý là tầm cỡ của những phần tử rời bỏ mật độ đồng đều trong vũ trụ ban đầu đã đưa đến sự hình thành những thiên hà đầu tiên, rồi những ngôi sao, và cuối cùngcon người chúng ta. Nguyên tắc bất định ngụ ý rằng vũ trụ ban đầu không thể đã hoàn toàn đồng đều bởi vì phải có vài sự bất trắc hoặc biến động về các vị trí và tốc độ của các hạt. Sử dụng điều kiện không biên giới, chúng ta thấy rằng vũ trụ thực ra đã khởi đầu với sự không đồng đều tối thiểu có thể được cho phép bởi nguyên tắc bất định. Vũ trụ khi đó sẽ trải qua một thời kỳ bành trướng nhanh, như trong các mô hình lạm phát. Trong thời kỳ này, những sự không đồng đều ban đầu sẽ được củng cố cho tới khi chúng đủ lớn để giải thích nguồn gốc của những cơ cấu mà chúng ta quan sát chung quanh chúng ta. Trong một vũ trụ bành trướng trong đó mật độ của vật chất thay đổi đôi chút ở nơi này so với nơi khác, hấp lực đã khiến những khu vực đậm đặc hơn bành trướng chậm lại và khởi sự co rút. Điều này sẽ đưa tới sự hình thành các thiên hà, các ngôi sao, và cuối cùng ngay cả những sinh vật nhỏ nhoi như chúng ta. Do đó mọi cơ cấu phức tạpchúng ta thấy trong vũ trụ có thể được giải thích bởi điều kiện không biên giới cho vũ trụ cùng với nguyên tắc bất trắc của cơ học lượng tử.

Ý tưởng rằng không gianthời gian có thể hình thành một bề mặt kín mà không có biên giới cũng có những hàm ý sâu xa cho vai trò của Thượng Đế trong công việc của vũ trụ. Với sự thành công của những lý thuyết khoa học trong việc mô tả các biến cố, hầu hết mọi người đã đi tới tin tưởng rằng Thượng Đế cho phép vũ trụ tiến hóa theo một bộ các định luật và không can thiệp vào vũ trụ để phá vỡ những định luật này. Tuy nhiên, các định luật không cho chúng ta biết vũ trụ phải giống như cái gì khi nó bắt đầu -- nó vẫn còn tùy thuộc vào Thượng Đế để lên dây thiều và lựa chọn cách khởi đầu. Chừng nào mà vũ trụ còn có một khởi đầu, chúng ta còn có thể giả định nó có một đấng sáng tạo. Nhưng nếu vũ trụ thực sự tự chứa, không có biên giới hoặc bờ bến, nó sẽ không có khởi đầu cũng như khôngkết cuộc: nó giản dị hiện hữu. Như vậy thì đâu có nơi nào dành cho một đấng sáng thế?



#64
tritanngo99

tritanngo99

    Đại úy

  • Điều hành viên THPT
  • 1644 Bài viết
LƯỢC SỬ THỜI GIAN
(A Brief History of Time)
Tác Giả:-Steven Hawking - Dịch Giả:-Thích Viên Lý
Viện Triết Lý Việt NamTriết Học Thế Giới, USA


CHƯƠNG 9
MŨI TÊN THỜI GIAN

Như chúng ta đã thấy ở những chương trước, quan điểm của chúng ta về bản chất thời gian từ trước tới nay đã biến hóa ra sao. Mãi cho đến đầu thế kỷ này, người ta vẫn còn tin vào một thời gian tuyệt đối. Nghĩa là, mỗi biến cố có thể được gán cho một con số gọi là "thời gian" và mọi đồng hồ tốt đều đồng ý về khoảng thời gian giữa hai biến cố. Tuy nhiên, sự khám phá ra rằng tốc độ của ánh sáng có vẻ như nhau đối với mọi quan sát viên, bất kể người đó di chuyển ra sao, đã đưa tới thuyết tương đối -- và trong thuyết đó người ta đã phải từ bỏ ý niệm rằng có một thời gian tuyệt đối duy nhất. Thay vào đó, mỗi quan sát viên sẽ có số đo riêng về thời gian như được ghi nhận bởi một chiếc đồng hồ mà người đó mang theo: những đồng hồ mang bởi những quan sát viên khác nhau sẽ không nhất thiết đồng ý với nhau. Do đó thời gian đã trở thành một ý niệmtính cách cá nhân hơn, tương đối với quan sát viên đo đạc nó.

Khi cố gắng thống nhất hấp lục với cơ học lượng tử, người ta đã phải đưa vào ý niệm thời gian "tưởng tượng." Thời gian tưởng tượng không thể phân biệt được từ những hướng trong không gian. Nếu người ta có thể đi về hướng bắc, người ta có thể quay trở lại và hướng về phía nam; cũng vậy, nếu người ta có thể đi tới trong thời gian tưởng tượng, người ta phải có thể quay lại và đi ngược trở lại. Điều này có nghĩa có thể không có sự khác biệt quan trọng nào giữa những chiều đi tới và đi lui của thời gian tưởng tượng. Mặt khác, khi người ta nhìn vào thời gian "thật," có một sự khác biệt rất lớn giữa các chiều đi tới và đi lui, như chúng ta đều biết. Sự khác biệt này giữa quá khứ và tương lai từ đâu mà ra? Tại sao chúng ta nhớ quá khứ mà không nhớ tương lai?

Các định luật khoa học không phân biệt giữa quá khứ và tương lai. Nói rõ hơn, như đã được giải thích trước đây, các định luật khoa học không thay đổi theo sự phối hợp các hoạt động (hay đối xứng) được biết như là C, P, và T. (C có nghĩa là đổi hạt thành phản hạt, P có nghĩa lấy hình phản chiếu, để trái và phải đổi cho nhau. Và T có nghĩa đảo ngược chiều chuyển động của mọi hạt: hậu quả, cho chuyển động chạy ngược trở lại.) Những định luật khoa học chi phối phản ứng của vật chất dưới mọi tình huống bình thường sẽ không thay đổi dưới sự phối hợp của hai tác dụng C và P. Nói khác đi, đời sống sẽ vẫn như vậy đối với các cư dân của một hành tinh khác, những người vừa là những hình ảnh phản chiếu của chúng ta vừa được cấu tạo bởi phản vật chất, thay vì vật chất.

Nếu các định luật khoa học không thay đổi bởi sự phối hợp của các tác dụng C và P, và cũng bởi sự phối hợp C, P, và T, chúng cũng phải không thay đổi dưới một mình tác dụng T. Tuy nhiên có một khác biệt lớn giữa những chiều đi tới và chiều đi lui của thời gian thực trong đời sống bình thường. Hãy tưởng tượng một ly nước rơi từ trên bàn xuống và vỡ thành những mảnh vụn trên sàn nhà. Nếu bạn quay phim sự kiện này, bạn có thể dễ dàng nói nó đang đi tới hay đi lui. Nếu bạn cho quay ngược lại bạn sẽ thấy các mảnh vụn bỗng nhiên gom trở lại từ sàn nhà và nhảy trở lại để thành một ly đầy trên bàn. Bạn có thể nói rằng đoạn phim chạy ngược lại bởi vì chuyện này không bao giờ thấy trong đời sống bình thường. Nếu không, những nhà chế tạo đồ gốm sẽ phải dẹp tiệm.

Sự giải thích thường được đưa ra về chuyện tại sao chúng ta không thấy những chiếc ly vỡ tự gom lại từ sàn nhà và nhảy trở lên bàn là nó bị ngăn cản bởi định luật thứ nhì về nhiệt động học. Định luật này nói rằng trong mọi hệ thống khép kín, sự mất trật tự luôn luôn gia tăng theo thời gian. Nói khác đi, đó là một hình thức của định luật Murphy: Mọi chuyện luôn luôn có khuynh hướng xấu đi! Một chiếc ly nguyên vẹn trên bàn là một tình trạng trật tự cao, nhưng một chiếc ly vỡ trên sàn nhà là một tình trạng mất trật tự. Người ta có thể sẵn sàng đi từ chiếc ly trên bàn trong quá khứ tới chiếc ly vỡ trên sàn nhà trong tương lai, nhưng không thể đi ngược lại.

Sự gia tăng tính vô trật tự theo thời gian là một thí dụ của điều được gọi là một mũi tên thời gian, một điều giúp phân biệt quá khứ với tương lai, khiến cho thời gian có một chiều hướng. Có ít nhất ba mũi tên thời gian khác nhau. Trước hết, có một mũi tên thời gian về nhiệt động học, là hướng thời gian trong đó sự mất trật tự gia tăng. Rồi, có một mũi tên thời gian về tâm lý học. Đây là chiều trong đó chúng ta cảm thấy thời gian trôi qua, chiều trong đó chúng ta nhớ quá khứ chứ không phải tương lai. Cuối cùng, có mũi tên thời gian về vũ trụ học. Đây là chiều thời gian trong đó vũ trụ đang bành trướng thay vì co rút.

Trong chương này, chúng ta sẽ lý luận rằng điều kiện không biên giới cho vũ trụ, cùng với nguyên tắc vị nhân chủng yếu, có thể giải thích tại sao tất cả ba mũi tên đều chỉ về một hướng -- và hơn nữa, tại sao một mũi tên thời gian được xác định rõ phải hiện hữu. Tôi sẽ lý luận rằng mũi tên tâm lý được xác định bởi mũi tên nhiệt động học, và rằng hai mũi tên này cần phải luôn luôn chỉ về một hướng. Nếu người ta chấp nhận điều kiện không biên giới cho vũ trụ, chúng ta sẽ thấy rằng phải có những mũi tên thời gian về nhiệt động học và vũ trụ học được xác định rõ, nhưng chúng sẽ không hướng về cùng một hướng đối với toàn thể lịch sử của vũ trụ. Tuy nhiên, tôi sẽ lý luận rằng đó chỉ khi nào chúng cùng hướng về một chiều thì các điều kiện mới thích hợp cho sự phát triển của các sinh vật thông minh, những kẻ có thể đặt ra câu hỏi: Tại sao sự mất trật tự gia tăng theo cùng hướng thời gian mà trong đó vũ trụ bành trướng?

Tôi sẽ thảo luận trước hết về mũi tên thời gian nhiệt động học. Định luật thứ nhì về nhiệt động học phát sinh từ sự kiện rằng luôn luôn có nhiều tình trạng mất trật tự so với các tình trạng trật tự. Thí dụ, hãy xét các mảnh của một bộ ráp hình trong một chiếc hộp. Có một, và chỉ một, cách sắp xếp trong đó các mảnh làm thành một bức hình hoàn toàn. Mặt khác, có một con số rất lớn cách xếp trong đó những mảnh bị mất trật tự và không làm thành một bức hình.

Giả thử một hệ thống khởi sự trong một tình trạng nào đó của một số nhỏ những tình trạng trật tự. Khi thời gian trôi qua, hệ thống sẽ tiến hóa theo các định luật khoa học và các tình trạng của nó sẽ thay đổi. Ở một thời gian về sau, hệ thống sẽ nhiều khả năng ở trong một tình trạng mất trật tự hơn là trong một tình trạng trật tự bởi vì có nhiều tình trạng mất trật tự hơn. Như vậy sự mất trật tự sẽ có khuynh hướng gia tăng theo thời gian nếu hệ thống tuân theo một điều kiện trật tự cao lúc đầu.

Giả sử các mảnh của bộ ráp hình khởi sự trong một chiếc hộp theo sự sắp xếp trật tự trong đó chúng làm thành một bức hình. Nếu bạn lắc chiếc hộp, các mảnh sẽ làm thành một sự xếp đặt khác. Sự sắp xếp này sẽ có thể là một sự sắp xếp mất trật tự trong đó các mảnh không làm thành một bức hình đúng, giản dị chỉ vì có quá nhiều những sự sắp xếp mất trật tự khác. Vài nhóm mảnh vẫn có thể làm thành những phần của bức hình, nhưng bạn càng lắc chiếc hộp, những nhóm này càng có thể sẽ vỡ ra và những mảnh sẽ ở trong một tình trạng hoàn toàn lộn xộn trong đó chúng không làm thành hình thù nào cả. Do đó sự mất trật tự của những mảnh có thể sẽ gia tăng theo thời gian nếu các mảnh tuân theo điều kiện ban đầu mà chúng khởi sự trong một điều kiện trật tự cao.

Tuy nhiên, giả thử Thượng Đế đã quyết định rằng vũ trụ phải kết thúc trong một tình trạng trật tự cao nhưng nó đã khởi đầu ở trong tình trạng nào là điều không quan trọng. Ở những thời gian ban đầu vũ trụ có thể ở trong một tình trạng mất trật tự. Điều này có nghĩa sự mất trật tự sẽ giảm đi theo thời gian. Bạn sẽ thấy những mảnh ly tự gom lại và nhảy lên bàn. Tuy nhiên, bất cứ những kẻ người trần mắt thịt nào đã quan sát những chiếc ly phải sống trong một vũ trụ trong đó sự mất trật tự giảm đi theo thời gian. Tôi sẽ lý luận rằng những con người như vậy sẽ có một mũi tên thời gian về tâm lý đi theo chiều ngược. Nghĩa là, họ sẽ nhớ các biến cố ở tương lai, và không nhớ những biến cố trong quá khứ của họ. Khi chiếc ly bị vỡ, họ sẽ nhớ lúc nó đang ở trên bàn, nhưng khi nó ở trên bàn, họ sẽ không nhớ lúc nó đang ở trên sàn nhà.

Hơi khó nói chuyện về ký ức của con người bởi vì chúng ta không biết chi tiết bộ óc hoạt động như thế nào. Tuy nhiên, chúng ta quả có biết mọi chuyện về những ký ức máy điện toán hoạt động ra sao. Do đó tôi sẽ thảo luận mũi tên thời gian tâm lý đối với máy điện toán. Tôi nghĩ cũng hợp lý khi giả thử rằng mũi tên đối với các máy điện toán cũng giống mũi tên đối với con người. Nếu không giống, người ta có thể ăn đứt trên thị chứng khoán bằng cách có một máy điện toán có thể nhớ giá cả của ngày mai!

Một ký ức điện toán trên căn bản là một dụng cụ chứa các phần tửthể hiện hữu ở một trong hai tình trạng. Một thí dụ giản dị là một bàn tính của người Trung Hoa. Trong hình thức giản dị nhất của nó, bàn tính này bao gồm một số những sợi dây kẽm, trên mỗi sợi dây là một hạt có thể được đặt ở một trong hai vị trí. Trước khi một khoản được ghi nhận trong ký ức của một máy điện toán, bộ nhớ ở trong một tình trạng mất trật tự, với những xác suất bằng nhau đối với hai tình trạng có thể xảy ra. (Các hạt của bàn tính nằm rải rác bất kỳ trên những sợi dây kẽm của bàn tính.) Sau khi ký ức tương tác với hệ thống để được nhớ, nó sẽ nhất định phải ở trong một tình trạng này hay tình trạng kia, tùy theo tình trạng của hệ thống. (Mỗi hạt bàn tính sẽ hoặc nằm ở bên trái hoặc nằm ở bên phải của sợi dây bàn tính.) Do đó ký ức đã chuyển từ một tình trạng mất trật tự sang một tình trạng trật tự. Tuy nhiên, để bảo đảm rằng ký ức ở trong tình trạng đúng, cần phải sử dụng một số năng lượng nào đó (để di chuyển hạt hoặc để cung cấp điện cho máy điện toán, thí dụ vậy). Năng lượng này được phân tán như nhiệt, và gia tăng lượng mất trật tự trong vũ trụ. Người ta có thể chứng tỏ rằng sự gia tăng mất trật tự này luôn luôn lớn hơn sự gia tăng về trật tự của chính ký ức. Do đó nhiệt bị thổi đi bởi chiếc quạt mát của máy điện toán có nghĩa rằng khi một máy điện toán ghi nhận một điều trong ký ức, lượng mất trật tự tổng cộng trong vũ trụ sẽ tăng lên. Chiều thời gian trong đó một máy điện toán nhớ quá khứ cũng giống như chiều trong đó sự mất trật tự gia tăng.

Ý thức chủ quan của chúng ta về chiều thời gian, tức chiều thời gian về tâm lý, do đó được xác định bên trong bộ óc của chúng ta bởi mũi tên thời gian nhiệt động học. Cũng như một máy điện toán, chúng ta phải nhớ mọi chuyện theo trật tự trong đó sự mất trật tự gia tăng. Điều này làm cho định luật thứ nhì của nhiệt động học hầu như ít quan trọng. Sự mất trật tự gia tăng theo thời gian bởi vì chúng ta đo thời gian theo chiều trong đó sự mất trật tự gia tăng. Bạn không thể đoán cách nào tốt hơn!

Nhưng tại sao mũi tên thời gian nhiệt động học lại hiện hữu? Hoặc, nói cách khác, tại sao vũ trụ phải ở trong một tình trạng trật tự cao ở một đầu của thời gian, đầu mà chúng ta gọi là quá khứ? Tại sao nó không ở trong một tình trạng lúc nào cũng hoàn toàn mất trật tự? Vả chăng, điều này có vẻ như dễ xảy ra hơn. Và tại sao mũi tên thời gian trong đó sự mất trật tự gia tăng giống như chiều trong đó vũ trụ bành trướng?

Trong thuyết tương đối tổng quát cổ điển người ta có thể tiên đoán vũ trụ đã khởi đầu như thế nào bởi vì mọi định luật khoa học đã biết sẽ sụp đổ ở nhất thể nổ lớn. Vũ trụ có thể đã khởi đầu trong một tình trạng rất trơn tru và trật tự. Điều này sẽ đưa tới những mũi tên thời gian nhiệt động học và vũ trụ học được xác định rõ, như chúng ta quan sát. Nhưng nó cũng có thể đã khởi đầu trong một tình trạng hỗn độn và mất trật tự. Trong trường hợp đó, vũ trụ đã ở trong một tình trạng hoàn toàn mất trật tự, do đó sự mất trật tự không thể gia tăng theo thời gian. Nó hoặc sẽ giữ nguyên không đổi, trong trường hợp này sẽ không có mũi tên thời gian nhiệt động học được xác định rõ, hoặc nó sẽ giảm đi, trong trường hợp này mũi tên thời gian nhiệt động học sẽ hướng theo chiều ngược lại với mũi tên vũ trụ học. Không có trường hợp nào trong những sự khả dĩ này phù hợp với những gì chúng ta quan sát. Tuy nhiên, như chúng ta đã thấy, thuyết tương đối tổng quát cổ điển tiên đoán sự xuống dốc của chính nó. Khi độ cong không-thời gian trở thành lớn, các hậu quả hấp lực lượng tử sẽ trở nên quan trọng và lý thuyết cổ điển sẽ không còn là một sự mô tả tốt về vũ trụ. Người ta phải sử dụng thuyết hấp lực lượng tử để hiểu vũ trụ đã bắt đầu như thế nào.

Trong thuyết hấp lực lượng tử, như chúng ta đã thấy trong chương vừa rồi, để định rõ tình trạng của vũ trụ người ta vẫn phải nói những lịch sử có thể của vũ trụ sẽ phản ứng ra sao tại biên giới của không-thời gian trong quá khứ. Người ta chỉ có thể tránh sự khó khăn phải mô tả những gì chúng ta không biết và không thể biết nếu những lịch sử thỏa mãn điều kiện không biên giới: chúng hữu hạn về độ lớn nhưng không có biên giới, bờ, hoặc các nhất thể. Trong trường hợp đó, sự khởi đầu của thời gian sẽ là một thời điểm không-thời gian bình thườngvũ trụ đã phải bắt đầu sự bành trướng của nó trong một tình trạng rất trơn tru và trật tự. Nó đã không thể hoàn toàn đồng đều, bởi vì điều đó sẽ vi phạm nguyên tắc bất định của thuyết lượng tử. Phải có những biến động nhỏ về mật độ và tốc độ của các hạt. Tuy nhiên, điều kiện không biên giới ngụ ý tằng những biến động này đã nhỏ hết cỡ có thể được, phù hợp với nguyên tắc bất định.

Vũ trụ đã phải khởi đầu với một thời kỳ bành trướng gấp bội hay "lạm phát" trong đó nó đã gia tăng về cỡ bởi một bội số nhân rất lớn. Trong sự bành trướng này, những biến động về mật độ lúc đầu đã duy trì ở mức nhỏ, nhưng về sau đã bắt đầu phát triển. Những vùng trong đó mật độ hơi cao hơn mức trung bình thì sự bành trướng bị giảm tốc độ bởi sự thu hút trọng lực của khối lượng phụ trội. Cuối cùng, những vùng như vậy sẽ ngưng bành trướng và co sụp để hình thành những thiên hà, các ngôi sao, và những sinh vật như chúng ta. Vũ trụ đã khởi sự trong một tình trạng trơn tru và trật tự, và sẽ trở thành hỗn độn và mất trật tự theo thời gian. Điều này giải thích sự hiện hữu của mũi tên thời gian nhiệt động học.

Nhưng những gì sẽ xảy ra nếu và khi vũ trụ ngưng bành trướng và khởi sự co rút? Liệu mũi tên nhiệt động học có đổi chiều và sự mất trật tự bắt đầu giảm theo thời gian hay không? Điều này sẽ đưa tới mọi loại khả dĩ giống như khoa học giả tưởng đối với những người sống sót từ giai đoạn bành trướng sang giai đoạn co rút. Liệu họ có nhìn thấy những chiếc ly vỡ tự gom lại từ sàn nhà và nhảy trở lên bàn hay không? Liệu họ có thể nhớ giá cả của ngày mai và làm giàu trên thị trường chứng khoán hay không? Có vẻ như nặng đầu óc học giả khi lo lắng về những gì sẽ xảy ra khi vũ trụ co sụp trở lại, trong khi nó sẽ không bắt đầu co rút trong ít nhất mười ngàn triệu năm nữa. Nhưng có một phương cách nhanh chóng hơn để tìm ra những gì sẽ xảy ra: nhảy vào một hố đen. Sự sụp đổ của một ngôi sao để làm thành một hố đen hơi giống những giai đoạn cuối của sự co sụp của toàn thể vũ trụ. Do đó nếu sự mất trật tự phải giảm đi trong giai đoạn co rút của vũ trụ, người ta có thể cũng trông đợi nó sẽ giảm đi bên trong một hố đen. Do đó có lẽ một nhà du hành vũ trụ rơi vào một hố đen sẽ có thể làm ra tiền tại bàn đánh bạc ru-lét bằng cách nhớ nơi trái banh đã đi trước khi đặt tiền. (Tuy nhiên, điều bất hạnh là ông ta sẽ không có thì giờ chơi trước khi biến thành mì sợi. Ông ta cũng không thể cho chúng ta biết về sự đảo ngược mũi tên nhiệt động học, hoặc ngay cả việc gửi tiền thắng vào ngân hàng, bởi vì ông ta sẽ bị mắc kẹt phía sau chân trời biến cố của cái hố đen.)

Lúc đầu, tôi đã tin rằng sự mất trật tự sẽ giảm đi khi vũ trụ co sụp trở lại. Lý do là tôi đã nghĩ rằng vũ trụ phải trở lại một tình trạng êm ả và trật tự khi nó trở nên nhỏ lại lần nữa. Điều này có nghĩa giai đoạn co rút sẽ giống như sự đảo ngược thời gian của giai đoạn bành trướng. Những người ở trong giai đoạn co rút sẽ sống cuộc đời của họ ngược chiều: họ sẽ chết trước khi họ sinh ra và trở nên trẻ hơn khi vũ trụ co rút.

Ý tưởng này có vẻ hấp dẫn bởi vì nó sẽ có nghĩa một sự đối xứng đẹp đẽ giữa các giai đoạn bành trướng và co rút. Tuy nhiên, người ta không thể chấp nhận riêng ý tưởng này, độc lập với những ý tưởng khác về vũ trụ. Vấn đề là: Nó có bao hàm bởi điều kiện không biên giới hay không, hay nó có mâu thuẫn với điều kiện đó hay không? Như tôi đã nói, lúc đầu tôi đã nghĩ rằng điều kiện không biên giới quả thật ngụ ý rằng sự mất trật tự sẽ giảm đi trong giai đoạn co rút. Tôi đã bị đưa đến sai lầm một phần bởi sự so sánh với bề mặt trái đất. Nếu người ta coi sự khởi đầu của vũ trụ tương ứng với Bắc Cực, khi đó kết cuộc của vũ trụ phải tương tự với sự khởi đầu, giống như Nam Cực tương tự như Bắc Cực. Tuy nhiên, Bắc Cực và Nam Cực tương ứng với sự khởi đầu và kết cuộc trong thời gian tưởng tượng . Sự khởi đầu và kết cuộc trong thời gian thực có thể rất khác nhau. Tôi cũng đã bị lầm lẫn bởi công việc mà tôi đã làm trên một mô hình vũ trụ giản dị trong đó giai đoạn co sụp trông giống như sự đảo ngược thời gian của giai đoạn bành trướng. Tuy nhiên, một đồng nghiệp của tôi, Don Page, ở trường đại học Pennsylvania, đã vạch ra rằng điều kiện không biên giới đã không đòi hỏi giai đoạn co rút nhất thiết phải là sự đảo ngược thời gian của giai đoạn bành trướng. Hơn nữa, một trong những sinh viên của tôi, Raymond Laflamme, đã thấy rằng trong một mô hình hơi phức tạp hơn, sự co sụp của vũ trụ rất khác sự bành trướng. Tôi nhận ra rằng mình đã phạm một sai lầm: điều kiện không biên giới ngụ ý rằng sự mất trật tự thật ra tiếp tục gia tăng trong giai đoạn co rút. Các mũi tên thời gian nhiệt động và tâm lý sẽ không đảo ngược khi vũ trụ bắt đầu co rút trở lại hoặc bên trong các hố đen.

Bạn sẽ làm gì khi bạn thấy bạn đã phạm một sai lầm như thế? Một số người không đời nào công nhận rằng họ sai và tiếp tục tìm kiếm những lý luận mới, và thường không ăn khớp với nhau để bênh vực trường hợp của họ -- như Eddington đã làm khi chống đối lý thuyết hố đen. Những người khác thì bảo rằng họ không hề ủng hộ quan điểm sai hoặc, nếu họ đã ủng hộ, đó chỉ là để chứng tỏ nó không phù hợp. Đối với tôi có vẻ như tốt hơn và đỡ hiểu lầm hơn nếu người ta công nhận bằng tài liệu in rằng họ đã lầm. Một thí dụ tốt của chuyện này là Einstein, người đã gọi hằng số vũ trụ mà ông đã đưa ra khi ông cố tạo một mô hình tĩnh của vũ trụ, là sai lầm lớn nhất trong đời ông.

Để trở lại mũi tên thời gian, vẫn còn câu hỏi: Tại sao chúng ta quan sát thấy rằng những mũi tên nhiệt động và vũ trụ cùng chỉ về cùng một hướng? Hoặc nói một cách khác, tại sao sự mất trật tự gia tăng cùng một hướng thời gian như hướng trong đó vũ trụ bành trướng? Nếu người ta tin rằng vũ trụ sẽ bành trướng và rồi co rút trở lại, như đề xuất không biên giói có vẻ bao hàm, điều này trở thành một câu hỏi tại sao chúng ta phải ở trong giai đoạn bành trướng thay vì giai đoạn co rút.

Người ta có thể trả lời câu hỏi này trên căn bản nguyên tắc vị nhân chủng yếu. Các điều kiện trong giai đoạn co rút sẽ không thích hợp cho sự hiện hữu của các sinh vật thông minh, những kẻ có thể đặt ra câu hỏi. Tại sao sự mất trật tự gia tăng cùng chiều thời gian như chiều trong đó vũ trụ bành trướng? Sự lạm phát trong những giai đoạn đầu của vũ trụ, như đề xuất không biên giới tiên đoán, có nghĩa rằng vũ trụ phải đang bành trướng ở nhịp độ sát với nhịp độ tới hạn, vừa đủ để tránh sự co sụp trở lại, và do đó sẽ không co sụp trở lại trong một thời gian rất dài. Tới lúc đó mọi ngôi sao đã cháy rụi và các proton và trung hòa tử của chúng có thể đã thoái hóa thành những hạt nhẹ hơn và bức xạ. Vũ trụ sẽ ở trong một tình trạng hầu như hoàn toàn mất trật tự. Sẽ không có mũi tên thời gian nhiệt động mạnh. Sự mất trật tự không thể gia tăng nhiều bởi vì vũ trụ đã ở trong một tình trạng hoàn toàn mất trật tự rồi. Tuy nhiên, một mũi tên nhiệt động mạnh cần thiết để đời sống thông minh hoạt động. Để sống còn, nhân loại phải tiêu thụ thực phẩm, là một hình thức năng lượng trật tự, và biến đổi nó thành nhiệt, là một hình thức năng lượng mất trật tự. Như vậy đời sống thông minh không thể tồn tại trong giai đoạn vũ trụ co rút. Đây là sự giải thích tại sao chúng ta quan sát thấy rằng những mũi tên thời gian nhiệt động và vũ trụ chỉ về cùng một hướng. Không phải sự bành trướng của vũ trụ làm cho sự mất trật tự gia tăng. Đúng ra là điều kiện không biên giới khiến sự mất trật tự gia tăng và các điều kiện trở thành thích hợp cho đời sống thông minh chỉ ở trong giai đoạn bành trướng.

Để tổng kết, các định luật khoa học không phân biệt giữa những chiều đi tới và đi lui của thời gian. Tuy nhiên, có ít nhất ba mũi tên thời gian quả thật phân biệt quá khứ với tương lai. Đó là mũi tên nhiệt động, chiều thời gian trong đó sự mất trật tự gia tăng; mũi tên tâm lý, chiều thời gian trong đó chúng ta nhớ quá khứ chứ không phải tương lai; và mũi tên vũ trụ, chiều thời gian trong đó vũ trụ bành trướng thay vì co rút. Tôi đã chứng tỏ rằng mũi tên tâm lý chính yếu cũng giống như mũi tên nhiệt động, do đó cả hai luôn luôn chỉ về cùng một hướng. Đề xuất không biên giới cho vũ trụ tiên đoán sự hiện hữu của một mũi tên thời gian nhiệt động được xác định rõ bởi vì vũ trụ phải khởi đầu trong một tình trạng trơn tru và trật tự. Và lý dochúng ta quan sát thấy mũi tên nhiệt động này phù hợp với mũi tên vũ trụ là các sinh vật thông minh chỉ có thể hiện hữu trong giai đoạn bành trướng. Giai đoạn co rút sẽ không thích hợp bởi vì nó không có mũi tên thời gian nhiệt động mạnh.

Sự tiến bộ của nhân loại trong việc hiểu biết vũ trụ đã xác lập một góc trật tự nhỏ trong một vũ trụ ngày càng mất trật tự. Nếu bạn nhớ mọi chữ trong quyển sách này, ký ức của bạn sẽ ghi nhận khoảng hai triệu mẩu thông tin: trật tự trong bộ óc của bạn sẽ gia tăng khoảng hai triệu đơn vị. Tuy nhiên, trong khi bạn đọc cuốn sách này, bạn sẽ chuyển đổi ít nhất một ngàn calories về năng lượng trật tự, dưới hình thức thực phẩm, thành năng lượng mất trật tự, dưới hình thức nhiệt mà bạn mất đi vào không khí chung quanh bạn bởi sự truyền nhiệt và mồ hôi. Điều này sẽ gia tăng sự mất trật tự của vũ trụ vào khoảng hai mươi triệu triệu triệu triệu đơn vị -- hay khoảng mười triệu triệu triệu lần sự gia tăng về trật tự trong bộ não của bạn -- và đó là nói nếu bạn nhớ mọi điều trong quyển sách này. Trong chương sau tôi sẽ cố gắng gia tăng trật tự trong khu vực của chúng ta xa thêm một chút bằng cách giải thích làm thế nào người ta đang cố kết hợp những lý thuyết từng phần mà tôi đã mô tả để hình thành một lý thuyết thống nhất hoàn chỉnh để bao gồm mọi thứ trong vũ trụ.



#65
tritanngo99

tritanngo99

    Đại úy

  • Điều hành viên THPT
  • 1644 Bài viết
LƯỢC SỬ THỜI GIAN
(A Brief History of Time)
Tác Giả:-Steven Hawking - Dịch Giả:-Thích Viên Lý
Viện Triết Lý Việt NamTriết Học Thế Giới, USA


CHƯƠNG 10
THỐNG NHẤT VẬT LÝ HỌC

Như đã được giải thích trong chương đầu tiên, rất khó xây dựng một lý thuyết thống nhất hoàn chỉnh cho mọi thứ trong vũ trụ. Cho nên thay vào đó chúng ta đã tiến dần bằng cách tìm những lý thuyết từng phần mô tả một dãy những biến cốgiới hạn và bằng cách bỏ qua những hậu quả khác hoặc ước lượng chúng bằng một số những con số. (Môn hóa học chẳng hạn, cho phép chúng ta tính toán sự tương tác của các nguyên tử, mà không biết cấu trúc bên trong hạt nhân của một nguyên tử.) Tuy nhiên, cuối cùng, người ta sẽ hy vọng tìm ra một lý thuyết thống nhất, phù hợp và hoàn chỉnh sẽ bao gồm tất cả những lý thuyết từng phần này như những sự ước lượng, và không cần phải được điều chỉnh cho phù hợp với các dữ kiện bằng cách chọn các trị số của một số các con số bắt buộc trong lý thuyết. Cuộc tìm kiếm một lý thuyết như vậy được biết như là "sự thống nhất của vật lý học." Einstein đã bỏ ra phần lớn những năm cuối đời của ông để tìm kiếm một lý thuyết thống nhất mà không thành công, nhưng thời gian lúc đó chưa chín mùi: đã có những lý thuyết từng phần cho các hấp lực và lực điện từ, nhưng rất ít điều được biết về các lực hạt nhân. Hơn nữa, Einstein đã không chịu tin vào thực tế của cơ học lượng tử, bất kể vai trò quan trọng mà ông đã đóng góp trong việc phát triển của môn này. Tuy nhiên, có vẻ như nguyên tắc bất định là một đặc tính căn bản của vũ trụchúng ta sống bên trong. Một lý thuyết thống nhất thành công do đó nhất thiết phải hội nhập nguyên tắc này.

Như tôi sẽ mô tả, viễn ảnh tìm ra một lý thuyết như vậy hiện có vẻ tốt đẹp hơn nhiều bởi vì ngày nay chúng ta hiểu biết nhiều hơn về vũ trụ. Nhưng chúng ta phải đề phòng sự tự tin quá lố -- chúng ta đã có những tin tưởng sai lầm trước kia rồi! Vào đầu thế kỷ này, chẳng hạn, người ta đã nghĩ rằng mọi chuyện có thể được giải thích theo các đặc tính của vật chất liên tục, như sự đàn hồi và sự dẫn nhiệt. Sự khám phá ra cấu trúc nguyên tử và nguyên tắc bất định đã đưa tới một sự kết thúc dứt khoát cho điều đó. Rồi một lần nữa, trong năm 1928, nhà vật lý đã chiếm giải Nobel là Max Born đã nói với một nhóm các khách viếng thăm trường đại học Gottingen, "Vật lý học, như chúng ta biết, sẽ kết thúc trong vòng sáu tháng." Sự tự tin của ông đã được căn cứ vào sự khám phá mới bởi Dirac về phương trình chi phối điện tử. Người ta đã nghĩ rằng một phương trình tương tự sẽ chi phối proton, là loại hạt duy nhất khác được biết lúc đó, và điều đó sẽ là kết cuộc của vật lý lý thuyết. Tuy nhiên, sự khám phá ra trung hòa tử và các lực hạt nhân cũng đã đánh gục điều đó. Tuy nói vậy, tôi vẫn tin rằng có những lý do để lạc quan một cách thận trọng rằng chúng ta hiện có thể gần đến đoạn cuối của cuộc tìm kiếm những định luật tối hậu của vũ trụ.

Trong những chương trước tôi đã mô tả thuyết tương đối tổng quát, lý thuyết từng phần về hấp lực, và những lý thuyết từng phần chi phối các lực yếu, lực mạnh và lực điện từ. Ba loại lực này có thể được kết hợp vào điều được gọi là những lý thuyết thống nhất lớn, hay GUT (Grand Unified Theories). Những lý thuyết này không hoàn hảo cho lắm bởi vì chúng không bao gồm hấp lực và bởi vì chúng chứa một số những số lượng, như các khối lượng tương đối của những hạt khác nhau, không thể tiên đoán được từ lý thuyết nhưng phải được lựa chọn để thích hợp với những quan sát. Khó khăn chính trong việc tìm ra một lý thuyết thống nhất hấp lực với các lực khác nằm ở chỗ thuyết tương đối tổng quát là một lý thuyết "cổ điển," nghĩa là, nó không hội nhập nguyên tắc bất định của cơ học lượng tử. Mặt khác, các lý thuyết từng phần khác trên căn bản phụ thuộc vào cơ học lượng tử. Do đó, một bước đầu cần thiết là phải kết hợp thuyết tương đối tổng quát với nguyên tắc bất định. Như chúng ta đã thấy, điều này có thể sinh ra vài hậu quả đáng kể, như các hố đen không phải đen, và vũ trụ không có điểm kỳ dị nào cả, mà hoàn toàn tự chứa và không có biên giới. Rắc rối là, như đã được giải thích trong chương 7, nguyên tắc bất định có nghĩa rằng ngay cả không gian "trống rỗng" cũng chứa đầy những cặp hạt và phản hạt ảo. Những cặp này sẽ có một số năng lượng nhất định và, do đó, theo phương trình nổi tiếng của Einstein E = mc2, chúng sẽ có một số khối lượng nhất định. Hấp lực của chúng như vậy sẽ uốn cong vũ trụ thành cỡ nhỏ vô hạn.

Hơi tương tự, những vô hạn có vẻ vô lý xảy ra trong những lý thuyết từng phần khác, nhưng trong tất cả những trường hợp này những vô hạn có thể bị triệt tiêu bởi một tiến trình gọi là tái bình thường hóa. Điều này liên quan đến việc triệt tiêu những vô hạn bằng cách đưa vào những vô hạn khác. Mặc dù kỹ thuật này hơi mơ hồ về toán học, nó hình như có hiệu quả trong thực tế, và đã được sử dụng với những lý thuyết này để thực hiện những tiên đoán phù hợp với những quan sát với một mức độ chính xác phi thường.Tuy nhiên, sự tái bình thường hóa quả thật có một nhược điểm nghiêm trọng từ quan điểm cố tìm kiếm một lý thuyết hoàn toàn, bởi vì nó có nghĩa những trị số thực của các khối lượng và sức mạnh của các lực không thể được tiên đoán từ lý thuyết, mà phải được lựa chọn để thích hợp với những quan sát.

Trong khi cố gắng hội nhập nguyên tắc bất định vào thuyết tương đối tổng quát, người ta chỉ có hai số lượng có thể được điều chỉnh: sức mạnh của trọng lực và trị số của hằng số vũ trụ. Nhưng sự điều chỉnh những số lượng này không đủ để loại trừ mọi vô hạn. Do đó người ta có một lý thuyết có vẻ tiên đoán rằng một vài số lượng, như độ cong của không-thời gian, thực ra là vô hạn, tuy những vô hạn này có thể được quan sát và đo đạc để hoàn toàn hữu hạn! Khó khăn trong việc kết hợp thuyết tương đối tổng quát với nguyên tắc bất định đã có lúc bị nghi ngờ, nhưng cuối cùng đã được xác nhận bằng những tính toán chi tiết vào năm 1972. Bốn năm sau, một giải pháp có thể, được gọi là "siêu hấp lực," đã được đề nghị. Ý tưởngkết hợp hạt có số quay 2 gọi là các hạt hấp lực (graviton), mang hấp lực, với vài hạt mới khác có số quay 3/2, 1, 1/2, và 0. Trong một ý nghĩa, tất cả những hạt này khi đó có thể được coi như những khía cạnh khác nhau của cùng "siêu hạt," do đó thống nhất các hạt vật chất với số quay 1/2 và 3/2 với những hạt mang lực có số quay 0, 1, và 2. Những cặp hạt/phản hạt ảo có số quay 1/2 và 3/2 sẽ có năng lượng âm, và do đó sẽ có khuynh hướng triệt tiêu năng lượng dương của các cặp hạt ảo có số quay 2, 1, và 0. Điều này sẽ khiến những vô hạn triệt tiêu, nhưng người ta nghi rằng vài vô hạn có thể còn tồn tại. Tuy nhiên, những tính toán cần thiết để biết liệu có bất cứ vô hạn nào còn lại mà không bị triệt tiêu hay không đã mất thì giờ và khó khăn đến nỗi không ai sẵn sàng thực hiện. Ngay cả với một máy điện toán, người ta ước tính sẽ cần ít nhất 4 năm, và nhiều rủi ro là người ta sẽ phạm ít nhất một sai lầm, có thể nhiều hơn. Do đó người ta sẽ chỉ biết câu trả lời đúng hay không nếu có người khác lập lại sự tính toán và nhận được cùng câu trả lời, và điều đó hình như rất khó xảy ra!

Bất kể những khó khăn này, và sự kiện rằng các hạt trong các lý thuyết siêu hấp lực đã không có vẻ phù hợp với những hạt đã quan sát được, hầu hết các khoa học gia tin rằng siêu hấp lực có thể là câu trả lời đúng cho vấn đề thống nhất vật lý học. Có vẻ đó là phương cách tốt nhất để thống nhất hấp lực với các lực khác. Tuy nhiên, trong năm 1984 có một thay đổi quan điểm đáng kể thiên về cái được gọi là những lý thuyết dây. Trong những lý thuyết này các vật thể căn bản không phải là các hạt, chiếm một điểm duy nhất trong không gian, mà là những cái có một chiều dài mà không có chiều khác, giống như một mẩu dây mỏng vô hạn. Những sợi dây này có thể có hai đầu (được gọi là dây mở) hoặc chúng có thể nối với nhau thành những vòng kín (dây kín) (Hình 10.1 và 10.2). Một hạt chiếm một điểm trong không gian tại mỗi điểm thời gian. Do đó lịch sử của nó có thể được biểu diễn bởi một đường trong không-thời gian ("đường thế giới'). Một dây, mặt khác, chiếm một đường trong không gian tại mỗi thời điểm. Do đó lịch sử của nó trong không-thời gian là một bề mặt hai chiều gọi là phiến thế giới. (Bất cứ điểm nào trên một phiến thế giới như vậy cũng có thể được mô tả bằng hai con số, một số chỉ thời gian và số kia chỉ vị trí của điểm trên sợi dây). Phiến thế giới của một sợi dây mở là một dải; các bờ của nó tượng trưng những con đường qua không-thời gian của những đầu của sợi dây (Hình 10.1). Phiến thế giới của một sợi dây đóng là một ống hình trụ (Hình 10.2); một đường cắt qua ống là một vòng tròn, tượng trưng vị trí của sợi dây tại một thời điểm đặc biệt.

Hai mẩu dây có thể nối với nhau để làm thành một sợi dây duy nhất; trong trường hợp những sợi dây mở chúng giản dị nối tại các đầu dây (Hình 10.3), trong khi trong trường hợp các dây kín nó giống hai ống quần (Hình 10.4). Tương tự, một mẩu dây duy nhất có thể chia thành hai sợi. Trong các lý thuyết dây, những gì trước kia được nghĩ như các hạt bây giờ được hình dung như các sóng di chuyển dọc sợi dây, giống như sóng trên một sợi dây diều đang rung. Sự phát ra hoặc hấp thụ của một hạt bởi một hạt khác tương ứng với sự phân chia hoặc nối với nhau của các sợi dây. Thí dụ, hấp lực của mặt trời tác động lên trái đất được hình dung trong các lý thuyết hạt như gây ra bởi sự phát ra một hạt graviton bởi một hạt ở mặt trời và sự hấp thụ của nó bởi một hạt ở trái đất (Hình 10.5). Trong lý thuyết dây, tiến trình này tương ứng với một ống hình chữ H (Hình 10.6). (Lý thuyết dây hơi giống công việc đặt ống nước, theo một cách nhìn). Hai bên chiều thẳng đứng của chữ H tương ứng với những hạt ở mặt trời và trái đất và ống nối nằm ngang tương ứng với hạt graviton di chuyển giữa chúng.

Lý thuyết dây có một lịch sử kỳ lạ. Nó đầu tiên được nghĩ ra vào cuối thập niên 1960 trong một cố gắng để tìm ra một lý thuyết để mô tả lực mạnh. Ý kiến là các hạt như proton và trung hòa tử có thể được coi như những sóng trên một sợi dây. Các lực mạnh giữa những hạt sẽ tương ứng với những mẩu dây đi giữa những khúc dây khác, như trong một màng nhện. Để lý thuyết này cho trị số đã quan sát được của lực mạnh giữa những hạt, các dây phải giống như những vòng dây thun với một sức kéo khoảng 10 tấn. Trong năm 1974 Joel Scherk ở Paris và John Schwarz thuộc Viện Kỹ Thuật California đã xuất bản một tài liệu trong đó họ chứng minh rằng lý thuyết dây có thể mô tả hấp lực, nhưng chỉ trong trường hợp sức căng trong sợi dây mạnh hơn rất nhiều, khoảng một ngàn triệu triệu triệu triệu triệu triệu tấn (số 1 với 39 số không theo sau). Những tiên đoán của lý thuyết dây sẽ giống như những tiên đoán của thuyết tương đối tổng quát, trên những cỡ chiều dài bình thường, nhưng chúng sẽ khác ở những khoảng cách rất nhỏ, dưới một phần ngàn triệu triệu triệu triệu triệu của một centimét (một centimét chia cho số 1 với 33 số không theo sau). Tuy nhiên, công trình của họ đã không được chú ý nhiều, bởi vì cũng đúng khoảng thời gian đó hầu hết mọi người đã bác bỏ lý thuyết dây nguyên thủy của lực mạnh để thiên về lý thuyết căn cứ vào các quark và gluon, có vẻ phù hợp hơn nhiều với những quan sát. Scherk đã chết trong trường hợp bi thảm (ông bị bệnh tiểu đường và đã bị hôn mê khi không có ai ở gần để chích cho ông một mũi thuốc insulin). Do đó Schwarz bị bỏ lại một mình hầu như là người duy nhất ủng hộ thuyết dây, nhưng hiện giờ trị số của sức căng dây được đề nghị cao hơn nhiều.

Trong năm 1984 sự chú ý về các dây bỗng sống lại, có vẻ như vì hai lý do. Một là người ta không thực sự tiến bộ nhiều theo chiều hướng chứng tỏ rằng siêu hấp lực là hữu hạn hoặc có thể giải thích các loại hạt mà chúng ta quan sát. Lý do kia là việc xuất bản một tài liệu của John Schwarz và Mike Green ở trường Queen Mary College ở Luân Đôn, chứng minh rằng thuyết dây có thể giải thích sự hiện hữu của các hạt có một đặc tính nội tại là thuận bên trái, giống như vài trong số những hạt mà chúng ta quan sát. Dù với lý do nào, nhiều người chẳng bao lâu khởi sự nghiên cứu về lý thuyết dây và một phiên bản mới đã được phát triển, cái được gọi là thuyết dây dị biệt, có vẻ như có thể giải thích các loại hạt mà chúng ta quan sát.

Các lý thuyết dây cũng đưa tới những vô hạn, nhưng người ta cho rằng chúng sẽ triệt tiêu tất cả trong những phiên bản như thuyết dây dị biệt (mặc dù điều này chưa được biết chắc chắn). Tuy nhiên, các lý thuyết dây, có một khó khăn lớn lao hơn: chúng hình như chỉ phù hợp nếu không-thời gian hoặc có mười hoặc có hai mươi sáu chiều, thay vì bốn chiều bình thường! Dĩ nhiên những chiều không-thời gian phụ trội là một chuyện thông thường của khoa học giả tưởng; thật vậy, chúng hầu như là một sự cần thiết, bởi vì nếu không chuyện thuyết tương đối cho rằng người ta không thể du hành nhanh hơn ánh sáng có nghĩa rằng di chuyển giữa các ngôi sao và các thiên hà sẽ mất quá nhiều thì giờø. Ý tưởng của khoa học giả tưởng là có lẽ người ta có thể dùng một con đường tắt qua một chiều cao hơn. Người ta có thể hình dung điều này như sau. Hãy tưởng tượng rằng không gianchúng ta đang sống chỉ có hai chiều và bị cong như bề mặt của một vòng neo tầu hoặc hình vành khuyên (Hình 10.7). Nếu bạn ở một phía của bờ trong của vành và bạn muốn đi tới một điểm nằm phía bên kia, bạn sẽ phải đi quanh bờ trong của vành. Tuy nhiên, nếu bạn có thể di chuyển trong chiều thứ ba, bạn có thể đi tắt thẳng qua bên kia.

Tại sao chúng ta đã không nhận thấy tất cả những chiều phụ trội này, nếu chúng thực sự có mặt? Tại sao chúng ta chỉ nhìn thấy ba chiều không gian và một chiều thời gian? Đề nghị để giải đáp là những chiều kia bị uốn cong lại thành một không gian cỡ rất nhỏ, một cái gì đó như một phần triệu triệu triệu triệu triệu của một inch. Nó quá nhỏ đến độ chúng ta không nhận thấy nó, chúng ta chỉ nhìn thấy một chiều thời gian và ba chiều không gian, trong đó không-thời gian hơi phẳng. Nó như bề mặt của một trái cam: nếu bạn nhìn thật gần, nó cong và nhăn nheo, nhưng nếu bạn nhìn nó từ xa, bạn không nhìn thấy những chỗ lồi lõm và nó có vẻ nhẵn nhụi. Do đó với không-thời gian: trên một cỡ thật nhỏ, nó có mười chiều và rất cong, nhưng ở những cỡ lớn hơn bạn không nhìn thấy độ cong hoặc những chiều phụ trội. Nếu hình ảnh này là đúng, nó có nghĩa là tin buồn cho những nhà du hành không gian tương lai: những chiều phụ trội sẽ quá nhỏ để cho phép một phi thuyền không gian đi qua. Tuy nhiên, nó nêu lên một vấn nạn lớn khác. Tại sao một số, mà không phải tất cả, các chiều lại cong lại thành một trái banh nhỏ? Giả sử, trong một vũ trụ rất sơ khai mọi chiều đã rất cong. Tại sao một chiều thời gian và ba chiều không gian đã phẳng lại, trong khi những chiều kia vẫn cong vòng?

Một câu trả lời có thể có là nguyên tắc vị nhân chủng. Hai chiều không gian hình như không đủ để cho phép phát triển những sinh vật phức tạp như chúng ta. Thí dụ, những động vật hai chiều sống trên một trái đất một chiều sẽ phải bò lên nhau để vượt qua nhau. Nếu một sinh vật hai chiều ăn cái gì đó nó có thể không tiêu hóa hoàn toàn, nó sẽ phải đưa ngược trở lên những đồ còn sót lại theo cùng con đường nó đã nuốt vào, bởi vì nếu có một đường đi qua cơ thể của nó, con đường sẽ chia sinh vật này ra làm hai nửa rời nhau, sinh vật hai chiều của chúng ta sẽ rã ra (Hình 10.8). Tương tự, thật khó mà thấy bằng cách nào có thể có sự lưu thông của máu trong một sinh vật hai chiều.

Cũng sẽ có những vấn nạn với không gian có quá ba chiều. Hấp lực giữa hai vật thể sẽ giảm nhanh hơn theo khoảng cách so với trong không gian ba chiều. (Trong ba chiều, hấp lực giảm còn 1/4 nếu tăng gấp đôi khoảng cách. Trong bốn chiều, nó sẽ giảm còn 1/8, trong năm chiều còn 1/16, và cứ thế.) Ý nghĩa của điều này là những quỹ đạo của các hành tinh, như trái đất, quanh mặt trời sẽ không ổn định: sự quấy rối nhỏ nhất từ một quỹ đạo tròn (như gây ra bởi sức hút trọng lực của những hành tinh khác) sẽ khiến trái đất xoáy ra xa hoặc đâm vào mặt trời. Chúng ta hoặc sẽ lạnh băng hoặc bị cháy tiêu. Thật vậy, phản ứng như vậy của trọng lực với khoảng cách ở các không gian quá bốn chiều có nghĩa là mặt trời không thể tồn tại trong một trạng thái ổn định với trọng lực cân bằng áp lực. Nó hoặc sẽ rã ra hoặc sẽ suy sụp để tạo thành một hố đen. Trong bất cứ trường hợp nào, nó sẽ không ích lợi gì như một nguồn phát nhiệt và ánh sáng cho đời sống trên Trái Đất. Trên một tầm mức nhỏ hơn, các lực điện khiến các điện tử quay chung quanh nhân trong một nguyên tử sẽ xử sự giống như các hấp lực. Do đó các điện tử sẽ hoặc từ nguyên tử thoát đi hết hoặc sẽ xoáy vào nhân. Trong bất cứ trường hợp nào, người ta không thể có các nguyên tử như chúng ta biết.

Như vậy có vẻ rõ ràng đời sống, ít nhất như chúng ta biết, chỉ có thể tồn tại trong những vùng không-thời gian trong đó một chiều thời gian và ba chiều không gian không bị uốn cong nhỏ lại. Điều này sẽ có nghĩa người ta có thể cầu cứu tới nguyên tắc vị nhân chủng yếu, với điều kiện người ta có thể chứng tỏ rằng thuyết dây quả thật ít ra cho phép có những vùng vũ trụ như vậy -- và có vẻ như thuyết dây cho phép. Rất có thể có những vùng khác của vũ trụ, hay những vũ trụ khác (dù cái đó có nghĩa là gì), trong đó mọi chiều đều cong nhỏ lại hoặc trong đó hơn bốn chiều gần như phẳng, nhưng sẽ không có các sinh vật thông minh ở những vùng như vậy để quan sát con số khác nhau của những chiều thật sự.

Ngoài vấn đề số chiều mà không-thời gian có vẻ có, lý thuyết dây vẫn có nhiều vấn đề khác phải được giải quyết trước khi nó có thể được tuyên bố như thuyết thống nhất tối hậu của vật lý. Chúng ta chưa biết liệu mọi vô hạn có triệt tiêu lẫn nhau hết hay không, hay làm thế nào để liên kết chính xác các sóng trên sợi dây với các loại hạt đặc biệtchúng ta quan sát. Tuy nhiên, có thể rằng những giải đáp cho những câu hỏi này sẽ được tìm ra trong những năm tới đây, và rằng trước cuối thế kỷ 20 chúng ta sẽ biết liệu lý thuyết dây có thật là lý thuyết thống nhất của vật lý mà từ lâu người ta tìm kiếm hay không.

Nhưng liệu thật sự có thể có một thuyết thống nhất như vậy hay không? Hoặc chúng ta chỉ đuổi theo một ảo ảnh? Có thểû có ba điều khả dĩ:

1) Thật sự có một lý thuyết thống nhất hoàn chỉnh, mà một ngày nào đó chúng ta sẽ khám phá ra nếu chúng ta đủ tinh khôn.

2) Không có lý thuyết tối hậu nào của vũ trụ, chỉ là một chuỗi vô tâïn các lý thuyết mô tả vũ trụ ngày càng chính xác hơn.

3) Không có lý thuyết của vũ trụ; các biến cố không thể được tiên đoán vượt xa hơn một mức độ nào đó mà xảy ra một cách tình cờđộc đoán.

Vài người sẽ bênh vực cho điều khả dĩ thứ ba với lý luận rằng nếu có một bộ hoàn chỉnh các định luật, điều đó sẽ cản trở tự do của Thượng Đế để đổi ýcan thiệp vào thế giới. Nó hơi giống như điều mâu thuẫn cũ: Thượng Đế có thể làm ra một tảng đá nặng đến độ Ngài không thể nhấc lên nổi hay không? Nhưng ý tưởng rằng Thượng Đế có thể muốn đổi ý là một thí dụ của sự ngụy biện, đã được vạch ra bởi St. Augustine, khi tưởng tượng Thượng Đế như một sinh vật hiện hữu trong thời gian: thời gian là một đặc điểm chỉ có ở vũ trụThượng Đế tạo ra. Giả sử Thượng Đế đã biết những gì người dự tính khi thành lập ra nó!

Với sự ra đời của cơ học lượng tử, chúng ta đã đi tới việc thừa nhận rằng các biến cố không thể được tiên đoán với sự chính xác hoàn toàn nhưng rằng luôn luôn có một mức độ bất trắc nào đó. Nếu người ta muốn, người ta có thể cho sự tình cờ này là do sự can thiệp của Thượng Đế, nhưng đóù sẽ là một loại can thiệp rất lạ thường: không có bằng chứng nào là nó được hướng dẫn tới mục đích nào. Thật vậy, nếu nó đã được hướng dẫn, theo định nghĩa nó sẽ không còn là tình cờ nữa. Ở thời đại tân tiến, chúng ta đã loại bỏ điều khả dĩ thứ ba ở trên một cách hiệu quả bằng cách tái định nghĩa mục tiêu của khoa học: mục đích của chúng ta là hình thành một bộ các định luật cho phép chúng ta tiên đoán các biến cố chỉ tới giới hạn đặt ra bởi nguyên tắc bất định.

Điều khả dĩ thứ nhì, rằng có một chuỗi vô hạn các lý thuyết ngày càng tinh vi hơn, phù hợp với mọi kinh nghiệm của chúng ta cho tới ngày nay. Trong nhiều dịp chúng ta đã gia tăng độ chính xác những đo đạc của chúng ta hoặc thực hiện một lớp các quan sát mới, chỉ để khám phá những hiện tượng mới đã không được tiên đoán bởi lý thuyết hiện hữu, và để xét tới những hiện tượng này chúng ta đã phải phát triển một lý thuyết tiến bộ hơn. Do đó sẽ rất không có gì đáng ngạc nhiên nếu thế hệ hiện nay của các lý thuyết thống nhất lớn là sai lầm khi cho rằng trên căn bản không có gì mới sẽ xảy ra giữa năng lượng thống nhất điện yếu vào khoảng 100 GeV và năng lượng thống nhất lớn vào khoảng một ngàn triệu triệu GeV. Chúng ta có thể thực sự trông đợi tìm ra nhiều lớp mới về cấu trúc căn bản hơn là các quark và điện tử mà hiện giờ chúng ta coi như các hạt "căn bản."

Tuy nhiên, hình như hấp lực có thể cung cấp một giới hạn cho chuỗi "hộp bên trong hộp" này. Nếu người ta có một hạt với một năng lượng trên mức được gọi là năng lượng Planck, 10 triệu triệu triệu GeV (số 1 theo sau bởi mười tám số 0), khối lượng của nó sẽ tập trung đến độ nó sẽ tự tách rời khỏi phần còn lại của vũ trụ và hình thành một hố đen nhỏ. Như vậy hình như quả thật chuỗi lý thuyết ngày càng tinh vi phải có giới hạn nào đó khi chúng ta tiến tới những năng lượng ngày càng cao, để cho phải có một lý thuyết vũ trụ tối hậu nào đó. Dĩ nhiên, năng lượng Planck là một con đường dài từ năng lượng khoảng một trăm GeV, là năng lượng lớn nhất mà chúng ta có thể sản xuất trong phòng thí nghiệm ngày nay. Chúng ta sẽ không nối cách biệt đó bằng các máy gia tốc hạt trong tương lai có thể nhìn thấy được! Tuy nhiên, chính những giai đoạn sơ khai của vũ trụ là một khung cảnh mà những năng lượng như vậy đã phải xảy ra. Tôi nghĩ có một cơ may rằng việc nghiên cứu vũ trụ sơ khai và những đòi hỏi về sự phù hợp toán học sẽ đưa chúng ta tới một lý thuyết thống nhất hoàn chỉnh trong vòng cuộc đời của một vài người trong chúng ta hiện đang sống ngày nay, luôn luôn giả sử chúng ta không làm nổ tung chúng ta trước.

Sẽ có nghĩa gì nếu chúng ta quả đã khám phá được thuyết tối hậu của vũ trụ? Như đã được giải thích ở Chương 1, chúng ta không bao giờ có thể chắc chắn rằng mình thực sự đã tìm ra lý thuyết đúng, bởi vì các lý thuyết không thể chứng minh được. Nhưng nếu lý thuyết phù hợp về toán học và luôn luôn cho những tiên đoán phù hợp với những quan sát, chúng ta có thể tin tưởng một cách hợp lý rằng đó là lý thuyết đúng. Nó sẽ đưa tới sự kết thúc một chương dài và đầy thắng lợi trong lịch sử tranh đấu trí tuệ của nhân loại để hiểu biết vũ trụ. Nhưng nó cũng sẽ cách mạng hóa sự hiểu biết của người thường về các định luật chi phối vũ trụ. Vào thời Newton một người có học thức có thể có một sự hiểu biết về toàn thể kiến thức con người, ít ra về đại cương. Nhưng kể từ đó, nhịp độ phát triển của khoa học đã làm cho điều này trở thành không thể được. Bởi vì các lý thuyết luôn luôn thay đổi để bao gồm những quan sát mới, chúng không bao giờ được tiêu hóa hoặc đơn giản hóa một cách thích hợp để người thường có thể hiểu được chúng. Bạn phải là một chuyên viên, và ngay cả khi đó, bạn chỉ có thể hy vọng nắm được một phần nhỏ của các lý thuyết khoa học. Hơn nữa, nhịp độ tiến bộ nhanh đến độ những gì người ta học được tại trường luôn luôn hơi lỗi thời. Chỉ một số ít người có thể bắt kịp biên cương mở rộng nhanh chóng của kiến thức, và họ phải dành trọn thì giờchuyên chú vào một lãnh vực nhỏ. Phần còn lại của người dân ít có ý kiến về những tiến bộ đang được thực hiện hoặc sự khích động mà chúng tạo ra. Bảy mươi năm về trước, nếu Eddington nói đúng, chỉ có hai người hiểu thuyết tương đối tổng quát. Ngày nay hàng chục ngàn những người tốt nghiệp đại học có thể hiểu rõ, và nhiều triệu người ít nhất quen thuộc với ý tưởng này. Nếu một lý thuyết thống nhất hoàn chỉnh được khám phá, sẽ chỉ là một vấn đề thời gian trước khi nó được tiêu hóađơn giản hóa giống như vậy và được dạy tại các trường học, ít nhất về đại cương. Khi đó tất cả chúng ta có thể có một ít hiểu biết về các định luật chi phối vũ trụ và chịu trách nhiệm về sự hiện hữu của chúng ta.

Cho dù chúng ta khám phá được một lý thuyết thống nhất hoàn chỉnh, nó sẽ không có nghĩa rằng chúng ta sẽ có thể tiên toán được các biến cố nói chung, vì hai lý do. Lý do thứ nhất là sự giới hạn mà nguyên tắc bất định của cơ học lượng tử đặt ra cho khả năng tiên đoán của chúng ta. Không có gì chúng ta có thể làm được để tránh điều đó. Tuy nhiên, trên thực tế, giới hạn thứ nhất này ít chặt chẽ hơn giới hạn thứ nhì. Nó phát sinh từ sự kiện rằng chúng ta đã không thể giải được các phương trình của lý thuyết một cách chính xác, ngoại trừ trong những tình huống rất đơn giản. (Chúng ta không thể giải đúng ngay cả sự chuyển động của ba vật thể trong thuyết hấp lực của Newton, và sự khó khăn gia tăng với con số vật thể và sự phức tạp của lý thuyết.) Chúng ta đã biết các định luật chi phối cách xử sự của vật chất dưới mọi tình huống ngoại trừ những tình huống cực đoan nhất. Đặc biệt, chúng ta biết các định luật căn bản làm nền móng cho hóa học và sinh học. Tuy nhiên chắc chắn chúng ta chưa giảm những môn này xuống tới địa vị của những bài toán đã được giải đáp, chúng ta cũng ít thành công trong việc tiên đoán động thái của con người bằng các phương trình toán học! Do đó dù chúng ta tìm được một bộ định luật căn bản hoàn chỉnh, trong những năm tới đây vẫn có những nhiệm vụ thách đố trí tuệ trong việc phát triển những phương pháp ước lượng tốt hơn, để chúng ta có thể thực hiện những tiên đoán có ích về các hậu quả có thể xảy ra trong những tình huống phức tạpthực tế. Một lý thuyết thống nhất phù hợp, hoàn chỉnh chỉ là bước đầu: mục tiêu của chúng ta là một sự hiểu biết toàn diện các biến cố chung quanh chúng ta, và sự hiện hữu của chính chúng ta.



#66
tritanngo99

tritanngo99

    Đại úy

  • Điều hành viên THPT
  • 1644 Bài viết
LƯỢC SỬ THỜI GIAN
(A Brief History of Time)
Tác Giả:-Steven Hawking - Dịch Giả:-Thích Viên Lý
Viện Triết Lý Việt NamTriết Học Thế Giới, USA


CHƯƠNG 11
KẾT LUẬN

Chúng ta thấy mình ở trong một thế giới đầy những thắc mắc. Chúng ta muốn giải thích những gì chúng ta nhìn thấy chung quanh chúng ta và đặt câu hỏi: Bản chất của vũ trụ là gì? chỗ đứng của chúng ta trong đó là gì và nó và chúng ta từ đâu mà tới? Tại sao nó lại như thế?

Để cố trả lời những câu hỏi này chúng ta chấp nhận một "hình ảnh thế giới" nào đó. Cũng như một cái tháp vô tận gồm những con rùa chống đỡ trái đất dẹp là một hình ảnh như vậy, lý thuyết về những sợi dây siêu đẳng cũng thế. Cả hai đều là những thuyết về vũ trụ, mặc dù thuyết sau có tính cách toán học và chính xác hơn nhiều so với thuyết trước. Cả hai thuyết đều thiếu chứng cớ do quan sát: không ai từng nhìn thấy một con rùa khổng lồ với trái đất nằm trên lưng, nhưng rồi cũng không ai thấy một sợi dây siêu đẳng. Tuy nhiên, thuyết con rùa không phải là một thuyết khoa học tốt bởi vì nó tiên đoán rằng người ta phải có thể rơi khỏi bờ của thế giới. Điều này đã không thấy phù hợp với kinh nghiệm, ngoại trừ nó biến thành sự giải thích về những người coi như đã biến mất trong Tam Giác Bermuda!

Những cố gắng về mặt lý thuyết ban đầu để mô tảgiải thích vũ trụ liên quan đến ý tưởng rằng các biến cốhiện tượng thiên nhiên bị kiểm soát bởi những thần linh có những cảm xúc của con người và hành động theo một bản chất rất giống con người và không thể tiên đoán được. Những thần linh này nằm ở những vật thiên nhiên, như sông và núi, kể cả các vật thể vũ trụ, giống như mặt trờimặt trăng. Người ta phải làm hài lòng và tìm ân huệ của những thần linh này để bảo đảm sự mầu mỡ của đất đai và sự quay vòng của mùa. Tuy nhiên, dần dần, người ta phải nhận thấy rằng có những sự đều đặn nào đó: mặt trời luôn luôn mọc ở hướng đông và lạên ở hướng tây, dù có dâng vật cúng tế nào cho thần mặt trời hay không. Hơn nữa, mặt trời, mặt trăng, và các hành tinh đi theo những con đường rõ rệt ngang bầu trời, có thể được tiên đoán với sự chính xác đáng kể. Mặt trờimặt trăng có thể vẫn còn là thần linh, nhưng chúng là những thần linh chịu tuân theo những định luật chặt chẽ, có vẻ như không có ngoại lệ nào, nếu người ta bỏ qua những câu chuyện như câu chuyện mặt trời ngừng lại vì Joshua.

Lúc đầu, những sự đều đặnđịnh luật này chỉ hiển nhiên trong thiên văn học và một vài tình huống khác. Tuy nhiên, khi nền văn minh phát triển, và đặc biệt trong 300 năm vừa qua, càng ngày những sự đều đặn và các định luật càng được khám phá thêm. Sự thành công của những định luật này đã khiến Laplace vào đầu thế kỷ 19 đưa ra thuyết định mệnh khoa học, nghĩa là, ông cho rằng sẽ có một bộ các định luật quyết định sự tiến hóa của vũ trụ một cách chính xác, xét về hình dạng của nó tại một thời điểm.

Thuyết định mệnh của Laplace không đầy đủ trên hai phương diện. Nó đã không cho biết các định luật đã được lựa chọn như thế nào và nó đã không định rõ hình dạng ban đầu của vũ trụ. Những điều này đã được dành cho Thượng Đế. Thượng Đế sẽ lựa chọn cách vũ trụ khởi đầu và những định luật nào nó tuân theo, nhưng sẽ không can thiệp vào vũ trụ một khi nó đã khởi đầu. Hậu quả là, Thượng Đế đã bị giới hạn ở những lãnh vực mà khoa học thời thế kỷ 19 đã không hiểu.

Hiện giờ chúng ta biết rằng hy vọng của Laplace về thuyết định mệnh không thể thành hình, ít ra theo các điều kiện mà ông đã hình dung. Nguyên tắc bất định của cơ học lượng tử ngụ ý rằng vài cặp số lượng, như vị trí và tốc độ của một hạt, không thể tiên đoán cả hai với sự chính xác hoàn toàn.

Cơ học lượng tử đối phó với tình trạng này qua một lớp các lý thuyết lượng tử trong đó các hạt không có những vị trí và tốc độ được xác định rõ rệt mà được biểu diễn bởi một sóng. Những lý thuyết lượng tử này có tính cách định mệnh theo ý nghĩa rằng chúng đưa ra những định luật cho sự tiến hóa của sóng theo thời gian. Như vậy nếu người ta biết sóng tại một thời điểm, người ta có thể tính toán nó ở bất cứ thời điểm nào khác. Yếu tố tình cờ, không thể tiên đoán được chỉ du nhập khi chúng ta cố giải thích sóng theo vị trí và tốc độ của các hạt. Nhưng có lẽ đó là sự lầm lẫn của chúng ta: có thểõ không có các vị trí và tốc độ của hạt, mà chỉ có các sóng. Chỉ vì chúng ta cố đưa các sóng vào những ý tưởng đã được ấp ủ từ trước về các vị trí và tốc độ. Sự không ăn khớp do đó là nguyên nhân đưa đến sự bất khả tiên toán thấy rõ.

Thật vậy, chúng ta đã định nghĩa lại nhiệm vụ của khoa học như là sự khám phá các định luật sẽ cho phép chúng ta tiên đoán các biến cố tới các giới hạn được đặt ra bởi nguyên tắc bất định. Tuy nhiên, câu hỏi vẫn còn đó: Như thế nào hoặc tại sao các định luậttình trạng sơ khởi của vũ trụ đã được lựa chọn?

Trong cuốn sách này tôi đã dành ưu thế đặc biệt cho các định luật chi phối hấp lực, bởi vì chính hấp lực là cái hình thành cơ cấu tầm mức lớn của vũ trụ, mặc dù nó là lực yếu nhất trong số bốn loại lực. Các định luật về hấp lực không phù hợp với quan điểm được duy trì mãi cho tới gần đây rằng vũ trụ không thay đổi theo thời gian: sự kiện rằng hấp lực luôn luôn thu hút ngụ ý rằng vũ trụ phải hoặc đang bành trướng hoặc đang co rút. Theo thuyết tương đối tổng quát, phải có một tình trạng mật độ vô hạn trong quá khứ, vụ nổ lớn, là một sự khởi đầu có hiệu quả về thời gian. Tương tự, nếu toàn thể vũ trụ co sụp trở lại, phải có một tình trạng mật độ vô hạn khác trong tương lai, vụ đổ vỡ lớn, sẽ là một kết cuộc về thời gian. Cho dù toàn thể vũ trụ không co sụp trở lại, sẽ có những điểm kỳ dị tại những vùng nhỏ co sụp để hình thành các lỗ đen. Những điểm kỳ dị này sẽ là một kết cuộc về thời gian đối với bất cứ ai rơi vào lỗ đen. Tại vụ nổ lớn và những điểm kỳ dị khác, mọi định luật sẽ sụp đổ, do có Thượng Đế vẫn còn hoàn toàn tự do để lựa chọn những gì đã xảy ra và vũ trụ đã bắt đầu như thế nào.

Khi chúng ta kết hợp cơ học lượng tử với thuyết tương đối tổng quát, hình như có một sự khả dĩ mới đã không xuất hiện trước đây: rằng không gianthời gian cùng nhau có thể hình thành một không gian bốn chiều hữu hạn mà không có các điểm kỳ dị hoặc biên giới, giống như bề mặt của trái đất nhưng với nhiều chiều hơn. Hình như ý tưởng này có thể giải thích nhiều trong số những đặc điểm đã được quan sát của vũ trụ, như sự đồng đều của nó trên tầm mức lớn và cả những thất thoát với tầm mức nhỏ hơn từ sự đồng nhất, như các thiên hà, các ngôi sao, và ngay cả nhân loại. Nó còn liên quan đến mũi tên thời gianchúng ta quan sát. Nhưng nếu vũ trụ hoàn toàn tự chứa đựng, mà không có các điểm kỳ dị hoặc biên giới, và hoàn toàn được mô tả bởi một thuyết thống nhất, điều đó có những hàm ý sâu xa về vai trò của Thượng Đế với tính cách Đấng Sáng Tạo.

Einstein có lần đã đặt câu hỏi: "Thượng Đế có bao nhiêu lựa chọn trong việc xây dựng vũ trụ?" Nếu ý kiến không biên giới là đúng, Thượng Đế không có tự do nào trong việc lựa chọn những điều kiện sơ khởi. Dĩ nhiên Thượng Đế vẫn có tự do để lựa chọn những định luậtvũ trụ tuân theo. Tuy nhiên, điều này có thể không thực sự là một lựa chọn; rất có thể chỉ có một lựa chọn, hoặc một số nhỏ, các lý thuyết thống nhất hoàn chỉnh, như lý thuyết dây dị biệt, tự phù hợpcho phép sự hiện hữu của các cơ cấu phức tạp như con người, sinh vật có thể khảo sát những định luật của vũ trụ và đặt câu hỏi về bản chất của Thượng Đế.

Cho dù chỉ có thể có một lý thuyết thống nhất, đó cũng chỉ là một bộ các quy luật và các phương trình. Điều gì gây ra những phương trình và tạo một vũ trụ để chúng mô tả? Phương pháp thường lệ của khoa học trong việc xây dựng một mô hình toán học không thể trả lời những câu hỏi tại sao phải có một vũ trụ để mô hình mô tả. Tại sao vũ trụ lại làm cho mọi người thắc mắc về sự hiện hữu? Thuyết thống nhất có đủ sức thuyết phục để đem lại sự tồn tại của chính nó hay không? Hay liệu có cần một đấng sáng tạo hay không, và, nếu như vậy, đấng sáng tạoảnh hưởng nào khác đối với vũ trụ hay không? Và ai tạo ra đấng sáng tạo?

Cho tới bây giờ, hầu hết các khoa học gia còn quá bận rộn với sự phát triển các lý thuyết mới mô tả vũ trụ là gì nên chưa đặt câu hỏi tại sao. Mặt khác, những người làm công việc đặt ra câu hỏi tại sao, các triết gia, đã không thể bắt kịp đà tiến bộ của những lý thuyết khoa học. Trong thế kỷ 18, các triết gia đã coi toàn thể kiến thức của nhân loại, kể cả khoa học, như lãnh vực của họ và thảo luận những câu hỏi như: Vũ trụ đã có một khởi đầu hay không? Tuy nhiên, trong các thế kỷ 19 và 20, khoa học đã trở nên có tính cách quá kỹ thuật và toán học đối với các triết gia, hoặc bất cứ ai khác trừ một số các chuyên gia. Các triết gia đã giảm tầm mức những câu hỏi của họ nhiều đến độ Wittgenstein, triết gia nổi tiếng nhất của thế kỷ này, đã phải nói "Nhiệm vụ chính yếu còn lại cho triết học là phân tích ngôn ngữ." Quả là một tuột dốc từ truyền thống vĩ đại của triết học từ Aristotle đến Kant!

Tuy nhiên, nếu chúng ta khám phá được một lý thuyết hoàn chỉnh, rồi ra nó phải có thể hiểu được trên nguyên tắc rộng rãi bởi tất cả mọi người, không phải chỉ một vài khoa học gia. Rồi tất cả chúng ta, những triết gia, khoa học gia, và cả những người bình thường, sẽ có thể tham gia vào cuộc thảo luận câu hỏi tại sao chúng tavũ trụ lại hiện hữu như thế. Nếu chúng ta tìm được câu trả lời cho điều đó, đây sẽ là một chiến thắng tối hậu cho lý luận của con người -- bởi vì khi đó chúng ta sẽ biết được ý nghĩ của Thượng Đế...



#67
tritanngo99

tritanngo99

    Đại úy

  • Điều hành viên THPT
  • 1644 Bài viết

LƯỢC SỬ THỜI GIAN
(A Brief History of Time)
Tác Giả:-Steven Hawking - Dịch Giả:-Thích Viên Lý
Viện Triết Lý Việt NamTriết Học Thế Giới, USA


THUẬT NGỮ DÙNG TRONG SÁCH
(Theo thứ tự abc của từ ngữ Anh văn trong ngoặc)

 

Độ không tuyệt đối (absolute zero): Ôn độ thấp nhất có thể đạt đến, ở ôn độ này vật chất không chứa nhiệt năng.

Độ gia tốc (acceleration): Tốc xuất mà tốc độ của một vật thay đổi.

Nguyên lý vị nhân chủng (anthropic principle): Chúng ta thấy vũ trụ ở dạng này là vì nếu nó khác thì chúng ta đã không có mặt ở đây để quan sát nó.

Phản hạt (antiparticle): Mỗi loại hạt vật chất (matter particle) đều có một phản hạt. Khi một hạt đụng chạm với phản hạt của nó thì chúng hủy diệt lẫn nhau, chỉ lưu lại năng lượng.

Nguyên tử (atom): Đơn vị cơ bản của vật chất thông thường, cấu tạo bởi một cái nhân thật nhỏ (trong nhân bao gồm những proton vàtrung hòa tử), với các điện tử chuyển động xung quanh nhân này.

Bùng nổ lớn (big bang): Điểm kỳ dị vào lúc mở đầu vũ trụ.

Co sụp lớn (big crunch): Điểm kỳ dị vào lúc kết thúc vũ trụ.

Hố đen (black hole): Một khu vực trong không-thời gian mà từ đó không vật gì, kể cả ánh sáng, có thể thoát ra, vì hấp lực tại đây quá mạnh.

Giới hạn Chandrasekhar (Chandrasekhar limit): Khối lượng tối đa khả hữu của một tinh tú nguội lạnh (cold star) ổn định, nếu vượt quá khối lượng này tinh tú phải co sụp thành một hố đen.

Bảo tồn năng lượng (conservation of energy): Định luật khoa học nói rằng năng lượng (hoặc khối lượng tương đương của nó) không thể được tạo ra hoặc hủy diệt.

Tọa độ (coordinates): Những con số chỉ định vị trí của một điểm trong không-thời gian.

Hằng số vũ trụ (cosmologiacal constant): Một phương pháp toán học mà Einstein đã dùng để khiến không-thời gian có khuynh hướng bành trướng cố hữu.

Vũ trụ luận (cosmology): Môn học nghiên cứu toàn thể vũ trụ.

Điện tích (electric charge): Đặc tánh của một hạt khiến nó đẩy xa (hoặc hấp dẫn) những hạt khác có điện tích giống như nó (hoặc tương phản với nó).

Lực điện từ (electromagnetic force): Lực phát ra giữa những hạt có điện tích, lực này có sức mạnh thứ nhì trong bốn lực cơ bản.

Điện tử (electron): Một hạt có điện tích âm chạy quanh nhân của một nguyên tử.

Năng lượng thống nhất điện yếu (electroweak unification energy): Năng lượng (khoảng 100 GeV) mà khi vượt trên giới hạn này thì sự khác biệt giữa lực điện từ và lực yếu sẽ biến mất.

Hạt cơ bản (elementary particle): Một hạt không thể phân chia được nữa.

Biến cố (event): Một điểm trong không-thời gian được ấn định bởi không gianthời gian của nó.

Chân trời biến cố (event horizon): Biên giới của một hố đen.

Nguyên lý loại trừ (exclusion principle): Hai hạt có vòng quay ½ giống hệt nhau không thể vừa có cùng vị trí vừa có cùng tốc độ (trong giới hạn do nguyên lý bất định đặt ra).

Trường (field): Cái gì đó hiện hữu trong khắp không-thời gian, trái với một hạt chỉ hiện hữu tại một điểm ở thời gian nào đó.

Tần số (frequency): Tổng số chu kỳ của một làn sóng trong một giây đồng hồ.

Tia gamma (gamma ray): Những sóng điện từ có độ dài rất ngắn, phát sinh từ sự suy biến phóng xạ hoặc bởi những đụng chạm giữa các hạt cơ bản.

Tương đối tổng quát (general relativity): Lý thuyết của Einstein đặt căn bản trên điều tin tưởng rằng các định luật khoa học đều giống nhau đối với mọi người quan sát, bất kể họ chuyển động như thế nào. Thuyết này giải thích hấp lực theo dạng cong của không-thời gian bốn chiều.

Trắc địa tuyến (geodesic): Con đường ngắn nhất (hoặc dài nhất) giữa hai điểm.

Năng lượng đại thống nhất (grand unification energy): Người ta tin rằng ở trên năng lượng này lực điện từ, lực yếu và lực mạnh trở thành bất khả phân biệt.

Thuyết đại thống nhất (GUT - grand unified theory): Lý thuyết thống nhất lực điện từ, lực mạnh và lực yếu.

Thời gian tưởng tượng (imaginary time): Thời gian đo bằng những con số tưởng tượng.

Hình nón ánh sáng (light cone): Một bề mặt trong không-thời gian đánh dấu những chiều hướng mà các tia sáng có thể đi qua một biến cố.

Giây ánh sáng (hoặc năm ánh sáng): Khoảng cách mà ánh sáng di chuyển trong một giây (hoặc một năm).

Từ trường (magnetic field): Trường của từ lực, ngày nay đã được hợp nhất với điện lực thành lực điện từ.

Khối lượng (mass): Số lượng của vật chất trong một vật thể; quán tính của vật thể, hoặc sự kháng cự của vật thể đối với độ gia tốc.

Bức xạ bối cảnh sóng ngắn (microwave background radiation): Bức xạ từ sự rực sáng của vũ trụ nóng trong thời kỳ sơ khai, ngày nay nó đã chuyển đỏ nhiều tới độ chúng ta không nhận thấy nó là ánh sáng mà là những sóng ngắn (những sóng vô tuyến có độ dài vài centimét).

Điểm kỳ dị trần truồng ("từ cấm" singularity): Một điểm kỳ dị trong không-thời gian không có hố đen vây quanh.

Neutrino (trung vi tử): Một hạt cơ bản cực nhẹ (có thể không có khối lượng) chỉ chịu ảnh hưởng của lực yếu và hấp lực.

Trung hòa tử (neutron): Một hạt không có điện tích, rất giống proton, bao gồm khoảng một nửa những hạt trong nhân của đa số nguyên tử.

Trung tử tinh (neutron star): Một tinh tú nguội lạnh được chống đỡ bởi lực đẩy giữa các trung hòa tử theo nguyên lý loại trừ.

Điều kiện vô biên giới (no boundary condition): Ý kiến cho rằng vũ trụ là hữu hạn nhưng không có biên giới (trong thời gian tưởng tượng).

Tụ biến hạt nhân (nuclear fusion): Tiến trình trong đó hai hạt nhân đụng nhau và kết hợp thành một hạt nhân nặng hơn.

Hạt nhân (nucleus): Phần trung tâm của một nguyên tử, chỉ gồm có những protons và trung hòa tử, được giữ dính vào nhau bởi lực mạnh.

Máy gia tốc hạt (particle accelerator): Một loại máy sử dụng điện từ có thể gia tăng tốc độ những hạt có điện tích đang chuyển động, khiến chúng có thêm năng lượng.

Pha (phase): Đối với một sóng, vị trí trong chu kỳ của nó ở một thời gian đặc biệt: sự đo lường sóng để biết nó ở đỉnh, ở đáy, hay ở điểm nào đó giữa đỉnh và đáy.

Quang tử (photon): Một lượng tử của ánh sáng.

Nguyên lý lượng tử của Planck (Planck's quantum principle): Ý kiến cho rằng ánh sáng (hoặc bất cứ những sóng cổ điển nào) chỉ có thể được phát ra hoặc thu hút trong những lượng tử cố định, và năng lượng của chúng có tỷ lệ thuận với tần số của chúng.

Phản điện tử (positron, dương điện tử): Phản hạt (có điện tích dương) của điện tử.

Hố đen ban đầu, hay nguyên thuỷ (primordial black hole): Loại hố đen được cấu tạo trong thời kỳ sơ khai của vũ trụ.

Tỷ lệ thuận, tỷ lệ nghịch (proportional, inversely proportional): "X có tỷ lệ thuận với Y" nghĩa là khi Y được nhân lên bởi bất cứ con số nào thì X cũng tăng lên như vậy. "X có tỷ lệ nghịch với Y" nghĩa là khi Y được nhân lên bởi bất cứ con số nào thì Y được chia ra bởi con số đó.

Proton: Hạt có điện tích dương bao gồm khoảng một nửa tổng số hạt trong đa cố nguyên tử.

Lượng tử (quantum): Đơn vị không thể phân chia trong đó sóng có thể phát xạ hoặc hấp thụ.

Cơ học lượng tử (quantum mechanics): Lý thuyết được khai triển từ nguyên lý lượng tử của Max Planck và nguyên lý bất định của Werner Heisenberg.

Quark: Một hạt cơ bản cảm thụ lực mạnh. Mỗi proton và trung hòa tử được cấu tạo bởi 3 quark.

Radar: Hệ thống dùng sóng vô tuyến xung động để dò tìm vị trí của những vật thể bằng cách đo lường thời gian mà một xung cần đến để đạt tới vật thể và phản chiếu lại.

Tánh phóng xạ (radioactivity): Sự tan vỡ tự động của một loại hạt nhân nguyên tử để trở thành một loại hạt nhân nguyên tử khác.

Chuyển đỏ (red shift): Sự chuyển đổi sang màu đỏ của ánh sáng từ một tinh tú đang di chuyển càng lúc càng xa trái đất hơn.

Điểm kỳ dị (singularity): Một điểm trong không-thời gian ở đó dạng cong của không-thời gian trở thành vô hạn.

Định đề điểm kỳ dị (singularity theorem): Định đề nói rằng một điểm kỳ dị phải hiện hữu trong những tình huống nào đó – đặc biệtvũ trụ cần phải bắt đầu từ một điểm kỳ dị.

Không-thời gian (space-time): Không gian bốn chiều mà các điểm của nó là những biến cố.

Chiều không gian (spatial dimension): Bất cứ chiều nào giống như không gian của ba chiều trong không-thời gian – nghĩa là bất cứ chiều nào, ngoại trừ chiều thời gian.

Tương đối đặc biệt (special relativity): Lý thuyết của Einstein đặt căn bản trên điều tin tưởng rằng các định luật khoa học đều giống nhau đối với mọi người quan sát, bất kể tốc độ di chuyển của họ.

Phổ (spectrum): Có nhiều loại phổ, thí dụ như sự phân chia của một sóng điện từ thành những tần số của nó.

Quay (spin): Một đặc tánh nội tại của những hạt cơ bản, liên hệ tới (nhưng không giống hệt) quan niệm thông thường của chúng ta về động tác quay.

Trạng thái ổn cố (stationary state): Trạng thái không thay đổi với thời gian: một khối hình cầu quay ở một vận tốc cố định được coi là ổn cố vì trông nó giống nhau ở bất cứ thời khắc nào, tuy rằng nó không bất động.

Lực mạnh (strong force): Lực mạnh nhất trong bốn lực cơ bản, với tầm xa ngắn nhất trong số bốn lực. Nó giữ cho các quark dính vào nhau bên trong các proton và trung hòa tử, và giữ cho các proton và trung hòa tử dính vào nhau để tạo thành nguyên tử.

Nguyên tắc bất định: Người ta không bao giờ có thể biết chính xác cả vị trí lẫn vận tốc của một hạt cùng một lúc; khi càng biết chính xác hơn về điều này thì càng biết ít chính xác hơn về điều kia.

Hạt ảo (virtual particle): Trong cơ học lượng tử, một hạt mà người ta không bao giờ có thể dò tìm một cách trực tiếp, nhưng sự hiện hữu của nó có những hiệu ứng có thể đo lường được.

Độ dài sóng (wavelength): Khoảng cách giữa hai đỉnh hoặc hai đáy kế cận nhau của sóng.

Lưỡng tính sóng/hạt (wave/particle duality): Khái niệm trong cơ học lượng tử nói rằng không có sự khác biệt giữa các sóng và các hạt; đôi khi các hạt có hành vi giống như sóng, và đôi khi các sóng có hành vi giống như hạt.

Lực yếu (weak force): Lực yếu thứ nhì trong số bốn lực cơ bản, với tầm xa rất ngắn. Lực này ảnh hưởng tới tất cả các hạt vật chất, nhưng không ảnh hưởng tới các hạt mang kèm lực.

Trọng lượng (weight): Lực tác động lên một vật thể bởi trường hấp lực. Lực này có tỷ lệ thuận với khối lượng của vật thể, nhưng không giống hệt khối lượng.

Bạch tiểu tinh (white dwarf): Một tinh tú nguội lạnh được chống đỡ bởi lực đẩy giữa các điện tử theo nguyên lý loại trừ.


Bài viết đã được chỉnh sửa nội dung bởi tritanngo99: 18-04-2019 - 06:11


#68
tritanngo99

tritanngo99

    Đại úy

  • Điều hành viên THPT
  • 1644 Bài viết

HẠT CỦA CHÚA VÀ CHỦNG TỬ PHẬT

Nhụy Nguyên

 

hat-cua-chua.jpgVũ trụcon người hình thành như thế nào và tương lai sẽ ra sao? Câu hỏi chưa bao giờ được xếp lại. Vật lý lượng tử là ngành khoa học luôn tiên phong trong việc mở hướng nhìn ra ngoài thế giới. Nhiều định luật đúc rút từ những công trình khám phá vũ trụ đã làm thay đổi nhận thức về vạn vật. Đơn cử để kết luận nước có tri giác, hiểu được ý nghĩ con ngườitiến sĩ Masaru Emoto đã thí nghiệm hàng trăm nghìn mẫu nước, mà không mẫu nào ở dạng “vô trí”. Dẫu rất nông cạn, song tiếp cận với nhiều thành quả khoa học công bố mới nhất, chúng tôi thấy rất gần với Kinh điển Phật giáo. Nhà bác học Albert Einstein từng nói: “Phật giáo bao hàm cả khoa học cũng như vượt qua khoa học”. Chân lý tương đối thì nhiều, chân lý tối thượng chỉ có một. Đó là điều mà khoa học hiện đại đang hướng đến.

Nguyên văn câu trong kinh Hoa Nghiêm (Phật thuyết vào thời điểm mới chứng ngộ): "Ưng quán Pháp-giới tánh, Nhất thiết duy tâm tạo". Nghĩa làNên quán tánh của pháp giớitất cả do tâm tạo. Diễn rộng [để khỏi hiểu nhầm]: TÂM này không phải theo nghĩa giản đơn như tâm tình, tâm tưởng... mà là bản thểcủa vũ trụ, như ngôn ngữ của các nhà vật lý lượng tử gọi: Trường Thống nhất, Trường Siêu dây, Trường Hợp nhất. Đã gần 1 thế kỷ, Max Plank (Nobel vật lý 1918 - thầy của A. Einstein) từng phát hiện: "Vũ trụ này vốn không có cái gọi là vật chấtvật chất thật ra là hiện tượng do ý niệm tích lũy tạo thành". Ngày nay đồng nghiệp của ông đã chứng minh một cách thuyết phục, nó trái ngược với lối suy nghĩnhìn nhận thông thường: “Trong phần lớn vũ trụ, kể cả vật chất, là rỗng không” (Stuart Hameroff). Tuy nhiên khoa học lượng tử mới phát hiện vũ trụ ảo do VỌNG TÂM (a-lại-da biến hiện), còn cách khoảng rất xa với CHÂN TÂM của Phật giáo. Một cục sắt đặc, trên sự chứng nghiệm khoa học, trong nó vẫn cókhoảng trống để các hạt dao động không ngừng. Nếu ta chẻ cục sắt đó ra, ra mãi, sẽ tạo nên các loạihạt như proton, neutron, electron, hạt quarkhạt của Chúa (Hạt Higgs, được tìm thấy vào tháng 3 năm 2013). Gần ba ngàn năm trước, Thích Ca Mâu Ni Phật đã thấu suốt những “tiểu quang tử” với cách gọi và hình ảnh biểu hiện khác nhau. Bắt đầu là Ngưu mao trần (hạt bụi ở trên đầu lông trâu), mắt thườngkhó thể nhìn thấy; Ngưu mao trần chia làm bảy phần sẽ được Dương mao trần (hạt bụi trên lông dê); chia làm bảy thì sẽ được Thố mao trần (hạt bụi trên lông thỏ); chia tiếp làm bảy thì thành Thủy trần (bụi [trong] nước), nhục nhãn không thể thấy, tức trong nước cũng có khoảng không dành cho các hạt; Thủy trần tiếp tục chia làm bảy sẽ thành hạt Kim trần - loại hạt dao động trong cục sắt đặc ta lấy thí dụ ở trên. Kim trần phân làm bảy sẽ là Vi trần; phân tiếp làm bảy là Sắc tụ cực vi; phân tiếp làm bảy thì gọi là Cực vi chi vi. Đây là áo mật trong kinh Hoa Nghiêm được Master ChinKung - tiến sĩ, giáo sư danh dự của 2 trường đại học danh tiếng ở Úc là Queensland và Griffith đưa ra giảng giải, khuyên người đời tin nhận giáo lý Đức Phật.

Nhỏ đến hạt Sắc tụ cực vi, chỉ bậc A la hán mới thấy được. Xét ngang ở hạt Kim trần, Sắc tụ cực vi đã cho thấy vật chất vốn là sự giả hợp từ cái không. Điều này khế hợp với Bát Nhã Tâm Kinh: “Sắc tức thị không, không tức thị sắc”. Không - không có nghĩa là không có. Sắc - không có nghĩa là có. Cũng như lúc ta nhìn mây thấy hình người và muôn vật rõ ràng, nhưng lên tới gần sẽ thấy là sự hội tụ lượng tử. Fred Alan Wolf: “Không phải vật chất sản sinh vật chất khác, nhưng chính ý tưởngquan niệm, thông tin tạo ra vật chất. Từ góc độ Phật pháp, hết duyên, thân[tứ đại này (đất, nước, gió, lửa), đất trở về với đất, nước lại về với nước; nhưng “thẻ nhớ” là a-lại-da và Phật tánh (chưa hiển lộ) thì vẫn nguyên vẹn, rồi tùy vào duyên sẽ khoác lên mình một thân/kiếp mới... Duyên cũng có vô vàn. Quy luật nhân quả vận hành trong vũ trụ mà Đức Phật phát hiện, nhân xấu tạo ra quả xấu và ngược lại. Điều này còn phụ thuộc vào duyêngiáo lý gọi “trùng trùng duyên khởi”. Nhân ác nếu chưa hội đủ duyên sẽ chưa trổ quả; có loại nhân tốt song kẻ thừa tự vẫn gặt quả xấu mọc từ [nhân] quá khứ. Hiểu điều này sẽ không còn thấy rằng, con người ngay lúc sinh ra (lành lặn, đui què mẻ sứt, trong gia đình giàu sang hay bần cố) là bất công. Nhiều người do cái nhìn hạn hữu “1 đời” đã không thể tin nhân quả. Nhưng, tin hay không thì quy luật đó vẫn vận hànhGiả như ai muốn bóp méo chân lý tối thượng, đúng ra họ đang tự bóp méovận mạng của mình, còn cái bị “bóp méo” dĩ nhiên vẫn thường hằng bất biến. John Hagelin: “Cơ học lượng tử thực sự là cuộc chơi và trình diễn thông tin, cuộc chơi và trình diễn tiềm năng, sóng thông tin, sóng tiềm năng electron. Và thật là quan trọng, thế giới tiềm năng, đó không phải là thế giới electron mà là thế giới tiềm năng electron. Nhưng bạn phải hỏi câu này: Sóng thực sự là của cái gì? Trường là gì mà có dạng như sóng? Nó có phải là đại dương không? Không, nó là đại dương vũ trụ, một đại dươngthuần túy tiềm năng, một đại dương trừu tượng có tiềm năng hiện hữuchúng tôi gọi nó là Trường Thống nhất hay Trường Siêu dây. Và đó là cái đã làm ra chúng ta”.

Con người là một dạng vật chất giả hợp (huyễn tướng). Cái tạo nên vật chất chính là ý niệm được huân tậptích tụ trong tàng thức (a-lại-da); lúc lìa xác theo cách gọi của đạo Nho là du hồn bồng bềnh trôi dạt. Trừ những [hồn] người tu tập cao thâm, còn lại đúng hơn phải gọi là mê hồn, mê nên không có quyền tự quyết lựa chọn tương lai [kiếp kế tiếp] mà tùy vào nghiệp dẫn. Dạng “vật chất” mắt trần không nhìn thấy này nhà Phật gọi chung là thần thức (thần thức đi đầu thai). Còn thức mà khoa học đang bàn, họ gọi là “sóng lượng tử chức năng”, “sóng tư tưởng”, vô hình. Giáo sư Amit Goswami: "Chúng ta có thể ý thứcvề thế giới chỉ khi chúng ta xây dựng nền tảng của thế giới trên Thức"; "Thức là cái nó chọn lựa một vài tần số sóng cụ thể từ sóng khả năng vô hạn của Trường và tải chúng xuống não người để tạo ra kinh nghiệm toàn ảnh của nó". Diễn theo Kinh điểncon người khi lục căn (nhãn, nhĩ, tỹ, thiệt, thân, ý) tiếp xúc với lục trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp), sẽ tạo nên trường ý niệm đem vào “so sánh” với những gì có trong tàng thức (gom thâu từ nhiều đời), nếu tương hợp với cái có trong a-lại-da sẽ tạo nên cảm giác thích thúbám víu, và ngược lại... Ý niệm - là lý cao tột trong giáo lý nhà Phật. Vũ trụ nhận sự ảnh hưởng từ ý niệm của vô số loài trong trời đất có mối liên hệ mật thiết với nhau. Mối liên hệ vô hình này được các nhà vật lý học gọi là "tính đồng biến". Xin trích lời dẫn từ phim khoa học What the bleep do we know?: “Trong những góc nhỏ của không gian và thời gian các nhà khoa học đã khám phá một nguồn năng lượng vô tận và những bí ẩn gây chấn động. Nó cho thấy rằng tất cả chúng ta đều có mối liên hệ với nhau và cái vũ trụ vật chất bản chất lại là phi vật chấtThời gian và không gian chỉ là những khía cạnh tạo nên tính phi vật chất”. Thượng sư Kim cang Hoàng Niệm Tổ (từng là Giáo sư vật lý đại học) trong tuyệt tác chú giải kinh Phật thuyết Đại thừa Vô Lượng Thọ Trang nghiêm Thanh tịnh Bình đẳng Giác đã viết: “Ta nên biết: Thời gian sanh từ chuyển động. Xét về cội gốc, chuyển động phát sanh từ ý niệm. Do vọng niệm tiếp nối nên có thời gian”. Đại đức ChinKung lúc giảng cuốn chú giải này lại dùng hình ảnh một tấm lưới vĩ đại trong vũ trụ mà mỗi mắt lưới là một sinh mệnh. Theo đó khi một cá thể đọa lạc, nó sẽ kéo mắt lưới ấy xuống, làm ảnh hưởng đến cả tấm lưới. Mới hay không cứ tại gia hay xuất gia, ai giữ tâm trong lặng chính là giữ cho “tấm lưới nhân sinh” trụ ở cõi thanh khiết, là ân nhân của muôn loài. Hàng ngày con người thoải mái phát xuất ý niệm, không hề có một sự kiểm soát nào trừ phihọ muốn xoay chuyển đề tài hoặc không gian đột ngột thay đổi. Ngay cả khi nghỉ ngơi, vô số ý niệm tiếp tục được phóng ra. Theo khoa học ý niệm là dạng “hạt siêu vị trí” - cùng một thời điểm có mặt ở vô vàn vị trí khác nhau. Bạn gọi điện cho tôi, nhưng thông tin ấy sẽ có khắp địa cầu, bất cứ ai có vệ tinh tần số cao đều bắt được. Hoặc nếu bạn tha thiết một lòng phát ý niệm liên tục đến tôi, tần số dao động bao trùm tận hư không trọn pháp giới chỉ trong sát na. Trường thông tin này có tên gọi khoa học là tín tức, còn danh từ Phật học là chuyển tướng của a-lại-da. Nếu là ý niệm tiêu cực, nó ảnh hưởng nghiêm trọngđến không những không gian quả địa cầu này mà phủ trùm Tam giới. Nhà khí tượng học Edward Norton Lorenz nêu lên “Hiệu ứng cánh bướm” khiến giới khoa học ngạc nhiên tột độ, tuy nhiên đó mới chỉ là cái nhìn phần ngọn. Cội gốc của bão tố chủ yếu phát xuất từ ý niệm xấu ác trong tâm chúng sanhXã hộicàng phát triển, những cơn bão lại đột ngột tăng cường độ gió? Phật giáo lý giải ấy là do niệm lực xấu ác và hận thù của các loài tăng lên. Dạng ý niệm ấy phát xuất từ những cái đầu lạnh, máu lạnh và trái tim băng giá cùng chuỗi hành động sau đó như khí thải độc hại, tàn hoại môi trường rừng biển sẽ là nhiên liệu chiêu cảm bão tố, sóng thần, động đất. Thế nên thiên tai, cũng chính là nhân tai.

Siêu sóng từ tâm ý con người nếu ai nhận diện được cũng ở dạng thô phù. “Đã có rất nhiều nghiên cứuchứng tỏ rằng khi chúng ta bắt đầu di chuyển hay chuẩn bị nói điều gì đó, các tế bào thần kinh ở não đã thật sự hoạt động ngay cả trước khi chúng ta thật sự ý thức mình sắp làm gì” (Andrew Newberg). Khoảnh khắc trong đầu ta vụt hiện một ý tưởngthực tế nó đã biến dạng, chuyển đoạn thành hiện thực. Như ta đang xây nhà, từ điểm phát xuất cho đến hình thành dự án thiết kế, chỉnh sửa v.v, nó trải qua vô số ý niệm vi tế (cũng như thời gian từ đơn vị giây được chia thành một phần trăm, một phần nghìn giây). Khoa học gia Joseph Dispenza phát hiện: “Lượng thông tin vô tận não bộ xử lý trong mỗi giây cho chúng ta biết về thế giới nhiều hơn gấp bội những gì chúng ta nhận thức được. Tuy vậy mỗi phút giây chúng ta lại chìm đắm trong những trải nghiệm từ các giác quan đem lại: nhìn, ngửi, nghe, cảm giác… và thế là chúng ta chìm đắm trong thực tại của mình, chúng ta chẳng biết gì về thực tại cả và tất cả cảm nhận về cái gọi là thực tại ngoài kia đều đã được sàng lọc qua các giác quan của con người. Não bộ xử lý 400 tỷ bit thông tin trong 1 giây nhưng chúng ta chỉ nhận biết được 2000 bit”. Trong kinh Bồ Tát Xứ Thai có chép cuộc đối thoại: Thế Tôn hỏi trong một niệm có mấy niệm [vi tế], Bồ tát Di Lặc trả lời trong một khảy móng tay có "ba mươi hai ức trăm ngàn niệm". Dựa vào đơn vị đo lường ở mức thấp nhất thờiđó, tính ra trong một giây có hàng tỉ ý niệm vi tếCảnh giới này chỉ bậc A la hánBồ tát trở lên mới bắt được. Câu “Bồ tát sợ nhân” chính là cái nhân ý niệm này. Chúng sanh không bắt được ý niệmđể ýniệm kết thành cảnh giới, tức ý niệm sai khiến thân tạo nghiệp. Bồ tát biết xóa ngay ở ý niệm vi tế, không để ý niệm đề khởi, do đó chân tay miệng sẽ không trở thành nô lệ. Dễ hình dung hơn, ta lấy máy ảnh làm thí dụ. Lúc chụp ở tốc độ chậm, nếu vật di chuyển, bức ảnh sẽ bị nhòe; còn chụp ở tốc độ nhanh, dẫu vật di chuyển ống kính vẫn bắt được rõ ràng. Viên đạn với tốc độ lên tới hàng nghìn mét trên giây mà ống kính với công nghệ nanô vẫn chụp được viên đạn [bay ra từ nòng súng] không bị nhòa; đó tạm hiểu là tâm bắt được ý niệm vi tế. Thiền chính là ở đây; là lúc tâm kiểm soát tất cả mọi ý niệm móng khởi từ nội tâm phát xuất. Quán chiếu mà không bám víu, tạm hiểu là Thiền Minh Sát. Có một dạng thiền khác đầy vi diệu, bên Mật tông hành giả trì niệm lục tự đại minh chân ngôn Án ma ni bát di hồng (Aum mani padme hum); bên Tịnh tông trì niệm lục tự hồng danh Nam mô A Di Đà PhậtTỉnh thức trong từng giây phút. Một khi tâm khởi ý niệmhành giả lập tức niệm niệm nối tiếp ba câu, năm câu, mười câu kết lại thành khối khiến chúng không có cơ hội kết tinh. Tỉ như ai đó vừa muốn chửi mắng đánh đập kẻ khác, họ lập tức trì niệm hồng danh Đức Phật, niệm câu nào tai nghe rõ câu đó (dẫu là niệm thầm), tâm và khẩu hợp nhất, ai từng thực hành thuần thục, cơn bực tức sẽ lắng xuống, cảnh giới xấu biến mất. Miệng niệm Phậttrì chú, tai nghe rõ từng âm tiết tức tâm tạo sóng siêu thiện lan truyền, làm lợi lạc quần sanh. Ngược lại miệng niệm tai không nghe tức tâm loạn động. Chẳng hạn lúc ta chăm chú xem thời tiết hòng sắp xếp việc đại sự ngày mai, nhưng thời tiết qua rồi lại không có một mẩu thông tin. Chăn trâu để trâu lạc mất. Như vậy điều tối yếu của con người nằm ở Tâm, chứ không phải ThânNiệm Phật mà tâm nghĩ tham - sân - si - mạn - nghi, dĩ nhiên đang tạo nghiệp, lâm nguytrong cảnh giới đầy ma chướngNiệm Phật tâm khẩu hợp nhất tức hành giả thời khắc đang tạo nên cảnh giới Phật an lành tuyệt tĩnh. Ở đời, cũng như lúc ta nghe một bài hát qua loa không ấn tượng, nó là một dạng “trung tính”, còn nếu tâm ta dội lên niềm thương cảm qua âm thanh và lời ca thì lập tức tần sóng thiện ấy được cộng hưởng dao động. Hoặc xem phim đồi trụy, bạo lực, tâm “lên máu” với cảnh tượng trong phim, loại từ trường xấu này nhân lên, góp phần khiến thiên tai thêm khủng khiếp. Xem cảnh giả nhưng lại tạo nghiệp thật. Rất nhiều diễn viên nổi tiếng thế giới lãnh tội giết người, đâm xe cùng nhiều cảnh tượng ghê rợn khác; giống như họ đang “kết tinh” các trường đoạn mà họ từng đóng trong phim. Nhiều thiên tài và triết gia trở nên điên loạn hoặc tìm đến cái chết cũng vì nhầm lẫn về sự hiểu biết hữu hạn của mình so với vô tận thế giới. Điều này theo cách gọi khoa học là tín tức (ý niệm) chuyển thành cảnh giới tướng (vật chất). Xin dẫn lời Dean Radin: “Trong môi trường này, những gì tôi nghĩ và cách tôi hành xử sẽ gây ra những tác động lớn hơn, không chỉ cho chính bản thân mà ảnh hưởng phần còn lại của cả thế giới hơn hẳn so với quan điểm trong thế giới truyền thống. Vì thế, theo cách nhìn cơ bản nhất về đạo đức và luân lý, những suy nghĩ của tôi sẽ tác động đến thế giớivì vậythay đổi thế giới quan là rất quan trọng”. Câu “Nam mô A Di Đà Phật” như than hoạt tính [lọc nước đục thành trong], nếu được đưa vào tâm “cài đặt” thành công và tịnh niệm tiếp nối, sẽ có năng lực hút tất thảy bụi bặm trần ai, trả lại Phật tánh vốn dĩ. Quá rõ để khẳng định: Tịnh độ tông thù thắngthậm thâm. Là vậy, cái gì vi diệu thường đơn giản, dễ hành. Song chính vậy nó không dễ tin đối với cái gọi là ngãchấp tri chướng.

 
 

Tâm lắng đọng mới tạo nên điều vi diệu cho toàn pháp giới, mà trước hết nó tạo nên không gian [cảnh giớithuần khiếtThực tế cảnh giới Niết Bàn trước hết là trạng thái tâm an lạc tuyệt đối; tâm ấy trụ trong cõi uế trược cũng là Niết Bàn. Khoa học đã minh định lý thuyết trong Kinh Phật, rằng con người tiêu hao năng lượng chủ yếu do tâm quá nhiều vọng tưởng. Do vậy nếu một vị sư ngưng bặt vọng tưởngnăng lượng trong cơ thể họ không bị tiêu hao, họ sẽ không cần ăn vẫn minh mẫn khỏe mạnh hàng tháng, hàng năm trời. Lạm xét về mặt y học: Bắt đầu là ý niệm về bệnh, sau đó đi khám biết mình có khối u, ý niệm về nỗi lo dồn dập, được phát liên tục khiến cho khối u thêm lớn và nguy hại. Người tu có định lựccao sẽ xé toang ý niệm về khối u bằng công khóa tụng kinhniệm Phậttrì chú, bằng quán sát giữ tâm tuyệt tĩnh; rất nhiều hành giả lành bệnh nan y chỉ với việc hành trì “đơn giản” như vậy. Loại âm thanh/từ trường siêu thiện này là một dạng sóng hóa giải nghiệp lực và bệnh tật, điều này khoa học lượng tử rất dễ chứng minhTác động của tập thể luôn ảnh hưởng nghiêm trọng đến cá nhân, nhất là với con bệnh. Càng nhiều người phát ý niệm vô phương cứu chữa, con bệnh càng ít cơ hội lằn lặn. Dẫu rành rànhmáy móc chẩn đoán về căn bệnh giai đoạn cuốibác sĩ cũng không nên với ý niệm bệnh này hết chữa, vì như vậy nó sẽ dội ngược lại mình. Nghĩa là, khi ta phán điều xấu tệ đến với ai, thì ý niệm đó đã lưu giữ trong a-lại-da, tương đương với việc mình tự gieo một nhân xấu cho chính bản thân. Mở ra niềm hy vọng trước cửa tử của bất cứ ai không bao giờ là thừa. Lý thuyết này không được thực hành sẽ thật dễ hiểu khi sác xuất bác sĩ chuyên về bệnh [nan y] nào sẽ có nguy cơ mắc bệnh đó khá cao!(*) Từ đây có thể nhìn nhận ra mọi phương diện đời sống. Khoa học đã “giải ngộ” bí mật: “Quan sát của chúng ta tác động trực tiếp tới thế giới của ta”. Nhưng họ không tìm ra cách khiến tư tưởng tập trung, tụ lại, hay cao hơn là vắng bặt vọng tưởng, gọi theo nhà Thiền là định tâm. Điều này ngoài Phật pháp ra, không gì thay thế! Lời khai thị của một vị Hòa thượng đương thời: “Thân thể này giống như một đài phát xạ vậy, đem ý niệm chúng ta phát ra bên ngoài, đồng thời cũng là đài tiếp thuTin tức của toàn bộ vũ trụchúng ta đều nhận được, nhận được tại sao chúng ta không biết? Phiền não làm chướng ngại. Nếu phiền não nhẹ, tâm địa thanh tịnh, họ có thể tiếp thu được, càng thanh tịnh nhận được càng nhiều”. Phiền não chính là do con người tự tư tự lợi, kể cả làm thiện thì đa phần ý nghĩ phát xuất đầu tiên (và mục tiêu cuối cùng) vẫn là có lợi cho mình. Theo Duy thức học (được xem là môn Tâm lý học Phật giáo): trong 52 tâm sởthì tâm sở thiện chỉ 11, tâm sở bất thiện chiếm 26; cho thấy nếu không giữ chánh niệm (tiến tới quân bình hai dạng tâm sở, rồi tâm sở thiện vượt lên xóa sạch tâm sở bất thiện), nghiễm nhiên sẽ gây tội nghiệp dẫu người ấy chưa động chân tay. Ai cũng có chân tâm (chủng tử Phật hay còn gọi hạt giốngBồ đề) bị vùi sâu trong vọng tâm. Nếu nghĩ xấu thì ý nghĩ ấy lập tức làm nhiễu loạn thời không và đó chính là nghiệp lực mạnh mẽ bậc nhất lại không dễ gì được nhận ra và thừa nhận. William Tiller lý giải,nếu tính giải phóng lượng năng lượng tiềm tàng ở trong một nguyên tử Hydro, việc nó tạo ra vụ nổ Big Bang chỉ là chuyện cỏn con. Có thể ví ý niệm xấu như ngọn lửa hàn xì, nhìn chỉ thấy chân không nhưng nó kết tinh múi hàn sẽ khó lòng gỡ ra, khó lòng cứu vãn. Trong nhà Phật, hành giả chuyên tu xuất thế gian, họ chỉ ủng hộ cái thiện chứ không chống cái ác, mới được gọi là chánh tri chánh kiếnTham sẽ chiêu cảm cảnh giới ngạ quỷ ở kiếp sausân hận chiêu cảm địa ngụcsi (trước hết không tin nhân quảvốn là nền tảng căn bản trong Phật pháp) sẽ chiêu cảm cảnh giới loài vật. Ai tìm cách thoát khỏi vòng cương tỏa của danh vọng tiền tài, chuyên niệm hồng danh A Di Đà Phật sẽ nắm cơ hội lên Tây phươngthế giới muôn phần vượt trỗi Ta bà uế trược. (Các thế giới mà Đức Phật từng nêu lên giới thiệuHoa tạng thế giớiCực Lạc thế giới duy chân tâm tạo; Thập pháp giớiLục đạo luân hồi duy vọng tâm tạo; Địa ngụcngạ quỷsúc sanh duy "sân tâm, tham tâm, si tâm" tạo). Chớ bao giờ nghĩ con người nhỏ bé. Đức Phật từng nói trong kinh Hoa Nghiêm: “Tất cả chúng sanh đều có trí huệ và đức tướng Như Lai”. Phật thấu triệt về vũ trụvũ trụ nằm trong lòng bàn tay Ngài. Chúng sanh nào cũng có năng lực này, chỉ do vọng tưởng quá nhiều như mặt nước gợn sóng không thể soi trăng viên mãn. Những gì phát xuất từ tâm một cá nhân thật không ngờ ảnh hưởng đến toàn vũ trụ, rồi nó trả về nghiệp hoặc phước tùy theo ý niệm thiện hay ác. Phật dạy “nhất tức nhất thiết” (một là tất cả), câu này được khoa học thực nghiệm bằng tấm ảnh cắt ra trăm mảnh, mỗi mảnh vẫn chứa nguyên hình ảnh gốc ban đầu. Hay có thể dẫn thêm lý thuyết của nhà vật lý David Bohm: Cục nam châm đập vỡ thành nhiều mảnh, mảnh nào cũng có hai cực âm và dương. Có người lại bảo, tin điều này làm gì, có ảnh hưởng gì đến cuộc sống của tôi! Đúng vậy, có thể do “biệt nghiệp” trong căn mạng nên nó chưa ảnh hưởng đến đời sống của họ lúc này và trong đời này, nhưng đã ảnh hưởng đến toàn vũ trụ. Rồi lúc phước tồn lưu trong mạng bị họ tiêu xài phung phídung nhan xuống cấp, thân thể suy kiệt, ấy là lúc nghiệp tìm đến.

Khi khoa học khám phá ý niệm tạo cảnh giớichân lý tối thượng bao trùm bởi mê tín và thần quyền lên Đức Phật được phần nào gỡ bỏ. Đạo Phật xét ở cội gốc, một tí cũng chẳng dính đến tôn giáo. Những ai ngày nay hiểu và hành đúng giáo lý của Ngài cũng thấy rõ điều này. Từ lâu ngay cả danh từ tôn giáocũng bị người đời hiểu lệch. Một vị cao tăng giảng rõ nguyên ủy của từ này gồm những nghĩa: Giáo dụcđiều trọng yếu nhất; Giáo huấn điều tôn quý nhất; Giáo hóa điều chánh yếu nhất (chánh ở đây là không ). Tiếng Pháp chữ tôn giáo religion (tiếng Anh cũng từ này) hẳn có nguồn với động từ relier, nghĩa là nối liền, kết nối, hợp nhất v.v, chẳng hề liên quan đến thần thánh. Mở Kinh Phật ra toàn thầy giáo dạy học trò. Thích Ca Mâu Ni Phật đã gửi đến xã hội hiện đại thông điệp trọng yếu về giáo dục: “Chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều đó được ghi lại trong Kinh điển hay sách vở; chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều ấy được các nhà truyền giáo hay đạo sư của mình tuyên thuyết”. Ngài muốn mọi người hãy áp dụng sự học vào thực tế rồi chứng nghiệm; như cách mà khoa học đang làm.

Khoa học lượng tử hé lộ chân tướng vũ trụ, cũng là điều Đức Phật nhìn thấy hàng ngàn năm trước. Đó là sự gặp gỡ cao nhất giữa Phật và các nhà khoa học. Dẫu vậy, cái biết của Phật dựa trên sự chứng ngộ, còn cái biết của khoa học thông qua tri kiến. Một bên là chân lý hiện lên trong Tâm thanh khiết(thấy Tánh), một bên thông qua luận giải và máy móc. Sự biết của một số ít nhà khoa học và các bậc tri thức trên thế giới cũng là sự biết của rất nhiều những người tu hành theo Chánh pháp (chưa đắc Đạo). Còn sự biết của Phật chỉ có thể có ở những vị chứng quả thánh bên Tiểu thừatức từ quả Tu đà hoànlên đến A la hán, và hàng Bồ tát bên Đại thừaKinh Kim Cang có câu: “Nhất thiết pháp hữu vi, như mộng huyễn bào ảnh”. Ngày nay giới khoa học có cụm từ tương ưng gần như trùng khít: “Vũ trụ toàn ảnh”, tức toàn thể vật chất đều là sự phóng chiếu cái thật từ a-lại-da. "Thực tại hữu hình của cuộc sống đời thường của chúng ta, thực sự là một loại ảo ảnh, giống như một toàn ảnh. Phía dưới nó là một trật tự sâu hơn của hiện hữu, một mức độ rộng lớn và cơ bản hơn của thực tại, nó làm phát sinh tất cả sự vật và hiện tượng của thế giới vật chất trong cách thức rất giống một cuốn phim toàn ảnh sản sinh ra một hình toàn ảnh" (David Bohm). Như thật. Ai từng xem cổ vật qua công nghệ 3D sẽ biết: người ta chiếu vật thật ra hình ảnhnếu không sờ tay vào không ai nghĩ đó là ảnh. Vũ trụ này cũng vậy, nó được chiếu ra từ vọng tâm. Cái biết của Phật đã hoàn toàn ra khỏi khổ não luân hồi; cái biết của khoa học vẫn nằm trong lục đạo. Cái biết của các nhà khoa học giả như ngang với cái biết của Đức Phật (điều này là ảo tưởng), nhưng muốn được an lạc như Phật họ cũng phải quay lại từ đầu trên đường Đạo, từ con số không tròn trĩnh!

Phật có 84 ngàn pháp môn nhằm hợp với căn cơ từng người nhưng cùng mục đích khôi phục, tìm lại tự tánh; là trạng thái tâm vắng bặt vọng tưởng, đạt định, sinh trí huệgiải thoát khỏi sanh tửPháp môn vốn hợp căn, song nếu chiếu theo “di chúc” của Phật, thì thời nay pháp dễ thành tựu nhất là Tịnh độ tông, còn gọi là pháp môn Niệm Phật (Thời mạt Pháp, Tịnh độ thành tựu). Chiếu theo khoa học, đây là con đường sáng nhất, ngắn nhất đưa mỗi vận mạng đến với Chân Lý Tối Thượng. Một vị cao tăng dùng hai ngọn đèn làm thí dụngọn đèn của Đức Phật sáng chói và ngọn đèn phàm phu tắt lịm. Học Phật là làm sao dùng ánh sáng từ ngọn đèn Đức Phật thắp sáng ngọn đèn của mình, chứ không phải chúi đầu dùi mài kinh sử đến độ hỏi đâu biết đó nhưng tuyệt không có công phu hành Pháp, ấy là học Thiền mà không tọa thiền, học Tịnh lại không niệm Phật, học Mật cũng không trì chú miên miên mật mật; công phu ít cũng vài ba năm trở lên và nhận thấy rõ lợi ích mới có thể bàn đến, còn không chỉ là lời nói suông sáo rỗng. Ngước đầu nhìn Phật là dõi theo “ngón tay chỉ trăng”, sự ngưỡng vọng ấy dẫu sao cũng dừng lại ở Phật học. Cúi đầu trước Đức Phật chiêm nghiệm bổn tánh mới là học Phật. Hai sự này cách nhaucả đại dương!

N.N



#69
tritanngo99

tritanngo99

    Đại úy

  • Điều hành viên THPT
  • 1644 Bài viết
VŨ TRỤ HỌC PHẬT GIÁO
Mỹ Thanh dịch

 

vutruquanphatgiao.jpgVũ trụ học Phật giáo, một từ không khi nào nghe thấy trong các buổi nói chuyện thường ngày. Thế thì Vũ trụ học là gì ? Tự điển giải thích rằng đó là một ngành triết lý có liên hệđến nguồn gốc, sự tiến triển và cấu trúc của vũ trụ.

Điều này nghe như một định nghĩa ghê gớm, mà sự thăm dò của ngành này ít có liên quan đến những vấn đề mà chúng ta hằng ngày gặp phải. Thật ra, vấn đề ngược lại thì đúng hơn, từ khi có sự hiểu biết về những vận hành và quy luật của vũ trụ, và mô hình của quy luật nầy đang mở bày ra để có thể cung cấp cho chúng ta, những con người tầm thường, sự chỉ dẫn quý báu. Nếu chúng ta đủ sáng suốt để đi theo sự hướng dẫn này, chúng ta sẽ tránh được những quyết định sai lầm có thể dẫn đến những hậu quả không tốt, thay vì tiến triển đến các mục đích tốt đẹp trong đời sống của chúng ta.

Thêm vào đó, bởi trí tuệ vô hạn của Thầy chúng tađức Phật Sakyamuni (Thích Ca) và những bậc trước đó đã xuất hiện trên thế gian trước thời của đức Phật Thích Cachúng ta thật may mắn là những người thừa kế một truyền thống vũ trụ học vĩ đại, đáng kínhđáng sợhoàn toàn làm lu mờ những khái niệm tôn giáo Tây phương. Kể cả trước thời của đức Phật, những nhà thông thái và triết gia Ấn Độ qua sự tưởng tượng, sử dụng những sức mạnh siêu phàm và sự trầm tư của một trí tuệ cổ xưa nhất đã có từ thời tiền sử, đã xoay xở để đạt đến khái niệm của vũ trụ bao la, của không gian, và thời gian không thể đo lường. Trên thực tế, họ đã đạt đến một điểm – điểm vô tận.

Văn học Phật giáo rõ ràng chứng minh sự thật là đức Phật, với Phật nhãn, đã thanh lọc và hoàn hảohoá sự hiểu biết về cái vô hạn thực sự của vũ trụ cũng như thời gian dài không thể tính được của thời quá khứhiện tại, và tương lai trong vòng tròn của sinh diệt và hiện hữuVũ trụ được khoa học biết đến chỉ là tầng thấp nhất của ba mươi mốt tầng, vũ trụ không thể đếm được, vì không có khởi đầu.

Vũ trụ vật chất bao gồm sự vô hạn định của nhiều hệ thống thế giới nằm rải rác trong không gian vô định, mỗi thế giới đều thành hình và rồi bị huỷ diệt trong vòng thời gian vô thuỷ vô chung.

Để cho các đệ tử hiểu chút ít về ý nghĩa của số lượng lớn thời gian cần có, để hiểu về cuộc sống mà họ hiện đang trải quađức Phật tuyên bố số lượng sữa mẹ được uống và nước mắt đã chảy trong những kiếp sống trước còn nhiều hơn nước trong bốn đại dương.

Khái niệm của Phật giáo bao gồm chân trời to tát, rộng lớn với tầm nhìn vô tận, ngược lại với khái niệm hạn hẹp của địa lý được tìm thấy ở văn chương tôn giáo của Do Thái và Ả Rập (Semitic), đặc biệt là Kinh Thánh; theo lời của một tác giả đương thời, “giống như bước ra một túp lều không cửa sổ và nhìn lên bầu trời nửa đêm đầy sao".

Chiều dài không tính được của thời gian thế giới được nói đến như là một kiếp hoặc một đại kiếp. Một kiếp được chia ra thành bốn thời gian ngắn, mỗi thời gian rất dài, không thể đo lường kể cả bằng ngàn năm. Trong thời gian đầu của một kiếp, hệ thống của những thế giới đã hiện hữu hoàn toàn bị tiêu huỷ, hoặc chuyển thể sang những nguyên tố kết hợp. Phần đông chúng sinh sống ở nhiều tầng hiện hữukhác nhau, được tái sanh ở thế giới của Phạm Thiên, tầng hiện hữu cao nhất và tinh tế nhất, không bị huỷ diệt và tan biến. Thời gian thứ hai của một kiếp bắt đầu, chúng ta tìm những phần tử năng lượngcòn lại, tiêu biểu hoàn toàn tính khách quan, và thế giới Phạm Thiên và các chúng sinh sống ở đó, biểu hiện tính cách chủ quan, bị chia cách bởi các thái cực của sự hiện hữu phi thường. Sự tách rời này tiếp tục cho đến thời gian thứ ba của một kiếp đang hình thành. Trong thời gian này, hệ thống thế giới tiến hoá từ những phần tử còn lại, trong khi số đông chúng sinh thì từ trời Phạm Thiên thác sinh trở lại trên mặt đất tối tăm và đầy nước. Điều này dường như không làm phiền đến các chúng sinh có tâm thức ở từng trời Phạm Thiên, họ vẫn sống như họ từng sống, thân thể sáng chói, được nuôi dưỡng bởi sự sung sướng và không có giới tính.

Với thời gian dài vô tận, các điều kiện (nhân duyên) bắt đầu thay đổi. Cặn bã, với một chút sôi sục của nước gạo, bắt đầu tụ lại trên mặt đất lạnh, và những sinh vật của địa cầu bắt đầu nếm thử và thích thúvới vị giác này. Niềm sung sướng này dẫn đến sự ham muốn và dần dần họ nương tựa vào cặn bã này để làm món ăn. Những con người ở đây thấy thân thể nhẹ nhàng của họ mất dần ánh sáng, và trở nên nặng nề, thô kệch, và hình dạng và diện mạo của họ bắt đầu biến đổiDần dần, nước phủ trên mặt đất rút xuống; sương mù biến mất, và mặt trờimặt trăng hiện rõ trên nền trời.

Với thời tiến hoá liên tục, đầu tiên rêu mọc, rồi đến các cây bò sát, cây leo, và cuối cùng là những hạt giống ăn được xuất hiện. Lúc con người học tồn tại nhờ vào những nguồn thức ăn này, họ trở nên thô kệch, mất hết ánh sáng và nét rạng rỡ. Và rồi, họ thay đổi, trở thành những giống khác nhau, cũng như trở thành nam và nữ. Sự chia rẽ thành hai giới tính đưa đến tình trạng ham muốn nhục dục, đam mê, và ganh ghét, và đồng thời hình thành nhóm gia đình, và rồi sự thành lập xã hội. Hồ sơ vấy máu của vài chục ngàn năm vừa qua, là bằng chứng cụ thể về tình trạng điển hình của thời kỳ cuối của giai đoạn thứ ba của một kiếp.

Phần thứ tư và cuối cùng của một kiếp là lúc hệ thống thế giới vẫn giữ ở nấc thang phát triển mà nó đã đạt đếncho đến lúc bắt đầu một kiếp mới, trong lúc này cả tiến trình được lập lại. Dù muốn dù không, chúng ta cũng đang ở bên lề giai đoạn thứ tư của kiếp hiện tại.

Cần phải thấy rõ là tiến trình khó tin này chứa đựng một mâu thuẫn gây đau khổ : Khi hệ thống thế giớiđi theo con đường đưa đến sự tiến bộ rất cao về mặt vật chất, mỗi một bước tiến về mặt vật chất kèm theo đó là một bước tuột dốc về mặt tinh thần, hoặc tâm linh.

Nguyên tắc này áp dụng cho toàn bộ hệ thống thế giới, và trái đất vô nghĩa này là một phần trong hệ thống ấy. Hệ thống thế giới có khoảng 10.000 thế giới.

Có rất nhiều hệ thống thế giới như nói ở trên, và chiều dài của một kiếp thật là dài quá sức tưởng tượng, sự xuất hiện của đức Phật chỉ là việc hiếm có, so với thời gian một kiếp. Có vài kiếp được xem là những kiếp trống không vì không có vị Phật nào xuất hiện. Những kiếp khác may mắn hơn có thể có một hoặc nhiều vị Phật. Hệ thống thế giới của chúng tatrong vòng nhiều kiếp được ưu đãi với 28 vị Phật, kể cả đức Sakyamuni (Thích Ca Mâu Ni). Kiếp mà chúng đang sống được xem là 1 kiếp rất thịnh vượng với năm vị Phật : Kusanda, Konagamana, Kasyapsa, Sakyamuni và Maitreya, vị Phật tương lai.

 
 

Bây giờ chúng ta hãy để tâm đến những chúng sinh thông minh, có tri giác của những loài khác nhau đang hiện hữu trong vũ trụ của chúng ta, kể cả ở những vũ trụ không thể đếm hết, qua những thời đạikhông thể đo lường. Mặc dầu, thông thường thì chỉ có con người mới có thể giác ngộ, nhưng có những tầng hiện hữu cao hơn và sung sướng hơn, có những chúng sinh được ưu đãi với vẻ đẹp, sự sung sướng và quyền lực cao hơn loài người rất nhiều. Tái sanh ở những thế giới này chỉ dành riêng cho những chúng sinh biết làm việc phước thiện, và sống cuộc sống đoan chính. Tuy vậy, những tầng trời này không thường hằng, và một khi nghiệp tốt đã hết, những sinh linh này sẽ phải đầu thai lại làm người ở nơi trần thế.

Dưới cõi trần, có vô số cấp bậc thấp, sống rất đau khổ, những tầng địa ngục khủng khiếp, nơi đó các chúng sinh đã từng làm ác đang bị trừng phạt cho đến khi họ thay đổi trở nên tốt hơn, và có mong ướcđược tiến triển nơi cõi người, và nơi này là nơi duy nhất để có thể giác ngộ và đạt đến Niết Bàn.

Tuy vậy, như chúng ta đã thấy, thời gian và không gian là vô định, và hoàn cảnh của một chúng sinhtrong đời sống đặc biệt nào đó chịu nhiều ảnh hưởng của nghiệp quá khứ trong những kiếp trướcNăng lượng nghiệp quả này hình thành thiên hướngtính cách, và trong chừng mực đáng kểảnh hưởng đến tư cách và cá tính của người này. Để có được sự lựa chọn còn tuỳ thuộc vào việc người này bị khuất phục bởi năng lượng không tốt của quá khứ, và chẳng chịu cố gắng để sửa đổi hành vi xấu của mình. Trong trường hợp này, kẻ này sẽ tái sanh trong một tình trạng xấu hơn tình trạng hiện tại. Mặt khác, nếu người này tìm hiểu về Phật tính, qua sự cố gắng để thay đổi khắc phục tính xấu, và để cho ý thức vươn lên đến mức độ cao của trí tuệtừ bi và sự sáng suốt, kiếp tái sanh tới của người này không còn nghi ngờ gì nữa, sẽ là một tái sanh tốt đẹpthuận lợi, với nhiều cơ hội để tiến triển đến mục đích tối thượng – giác ngộ.

Do đó, con người hoàn toàn chịu trách nhiệm về định mệnh của chính mình. Tất cả chúng sinh đềunặng trĩu nghiệp, được tái sanh, để kinh nghiệm một cách không ngừng nghỉ về sự chuyển đổi vận mệnh, được định sẵn hoàn toàn do những chọn lựa, và hành động của họ trong những kiếp sống ở quá khứĐức Phật vì trí tuệ và lòng từ bi đã tuyên bố về sự thực của vòng luân hồi mãi mãi tiếp diễn cùng với đau khổ và sự bất như ýĐức Phật muốn những người theo Phật phải hiểu rõ hai nguyên nhânkhủng khiếp không thể tránh khỏi cho việc tái sanh không ngừng nghỉ, ấy là ham muốn và si mêHam muốn và si mê chỉ bị khắc phục xuyên qua việc giác ngộđạt đến trí tuệ, và việc tái sanh sẽ không còn nữa. Để giải thoát khỏi vòng luân hồidĩ nhiên mục tiêu tiến đến là Niết Bàn.

Đức Phật mở rộng những thảo luận về nhân duyên tái sanh ở bài giảng về mười hai nhân duyên, được gọi là Pratitya Samutpada. Tương quan phụ thuộc của nhân duyên, hay luật nhân quả của đạo Phật, được nói đến trong mười hai nhân duyên đưa đến sự đau khổ triền miên và sự bám víu vào việc tái sanh. Mỗi một nhân duyên trước dựa vào nhân duyên đã có trước đó. Như vậy, khi si mê chấm dứt, thì các bố trí của nhân duyên cũng chấm dứtý thức dứt rồi, thì tất cả mọi thứ như già, chết cũng như tái sanh đều dứt bặt hết.

Sau khi đức Phật nhập diệt, cái thấy của đức Phật về luân hồi, vòng luân chuyển của hiện hữu, cùng với mười hai nhân nhuyên được trình bày như một sơ đồ, thường được thảo kỹ lưỡng, chi tiết trong bức hoạ, được gọi là Bánh xe luân hồi (Wheel of Life). Dưới dạng biểu đồ này, sơ đồ biểu trưng kịch đời của một người, với sự lựa chọn của họ và những kết quả tiếp sau đó. Như chúng ta thấy sơ đồ tôi đang cầm trên tay, nguyên bánh xe được nắm giữ ở miệng và nanh vuốt của Mara, trong trường hợp này biểu trưng cho sự vô thường và cái chết. Ở chu vi của bánh xe, chúng ta thấy mười hai nhân duyên và móc xích của nó. Ở trung tâmchúng ta thường thấy biểu tượng của ba độc : gà trống tượng trưng cho ham muốn, rắn tượng trưng cho giận dữ-căm ghét và con heo biểu trưng cho ảo tưởng. Những độc này được xem là những sức mạnh đẩy đưa chúng ta vào vòng sinh tử. Mỗi cá nhân phản ứng theo những sức mạnh này tạo thành nghiệp, từ đây quyết định nơi nào trên vòng bánh xe mà người đó sẽ bị tái sinh.

Như chúng ta quan sát sơ đồ, có thể thấy rằng, có sáu thế giới để chúng sinh tái sanhTái sanh ở cõi trờicõi A-tu-la hoặc cõi người là phần thưởng cho cuộc sống đoan chính, và những hành động phước thiện, trong khi tái sanh ở cõi súc sinh, và ngạ quỷ hoặc địa ngục thì có thể xem là bị trừng phạt cho cuộc sống đắm mình trong si mêtội ác, chuyên hại người, và không cố gắng vươn lên để đạt đến trình độ cao của ý thức. Tuy vậy, như tôi đã nói trước đó, cuộc sống ở địa ngục có thể kéo dài trong một thời gian khác thường, rất là lâu , nhưng may mắn thay, không phải vĩnh viễnTái sanh trong ba cõi thấp nhất có thể được xem là tình thương cứng rắn của đức Phậtxem như là một dạng để dạy dỗ và cải thiện những người này, như vậy sau khi nghiệp xấu đã trả xong, họ có thể tái sanh làm người.

Cõi người, cho dù thấp hơn cõi trời và cõi A-tu-la, cũng vẫn quan trọng hơn, vì chỉ nơi cõi ngườitrí tuệvà đức hạnh mới có thể tăng trưởng. Như đã nhắc qua lúc trước, các chúng sinh tái sanh ở hai cõi cao kia, cũng chỉ là tạm thời, đó là phần thưởng của họ ở kiếp sống đạo đức trong quá khứTuy nhiên, một khi nghiệp tốt đã hết, họ sẽ bị tái sanh ở cõi thấp hơn. Sự trục xuất này đưa họ ra khỏi tình trạng hưởng thụ, đặc ân, có thể nói là cực kỳ đau đớn.

Do đó, tất cả các cõi luân hồi với sự thay đổi, đau khổ và cái chết là những việc không ai ưa thích. Chỉ duy nhất một mục đíchthường hằng và muốn giải thoát vĩnh viễn khỏi đau khổ, cách tốt nhất là giác ngộ. Đó là sự giải thoát khỏi bánh xe luân hồi. Đấy là Niết Bàngiải thoát khỏi tái sinh, và chuyển hoáhoàn toàn vòng sinh tử ác nghiệt mà chúng ta gọi là luân hồi.

Cho nên, Phật đã từng ném vào mỗi cá nhân, một câu nói đã từng vang vọng qua hàng thế kỷ: "Đây là con đường đưa đến giải thoát khỏi đau khổ. Hãy bước đi.”

Priya Karuna (Mỹ Thanh dịch) Mỹ Thanh dịch

#70
tritanngo99

tritanngo99

    Đại úy

  • Điều hành viên THPT
  • 1644 Bài viết

VÔ NGÃ, TÍNH KHÔNG VÀ KHOA HỌC LƯỢNG TỬ

Vũ Thế Ngọc
 

vu-the-ngoc-1.jpg
Tác giả trong buổi ra mắt sách tại Little Saigon

Chúng ta có thể thấy toàn bộ tư tưởng Phật giáo đều liên hệ với nhau. Sự liên hệ này có tính hữu cơ và tất yếu. Chữ hữu cơ và tất yếu được dùng ở đây có nghĩa là các thành phần tạo lập ra nền móng tư tưởng Phật giáo như Duyên khởi, Vô ngã, Vô thường, tính Không đều là những phạm trù tư tưởng tương quan tất yếu với nhau1 . Vô ngãVô thường là nội hàm của giáo pháp Duyên khởi, nói cách khác Vô ngãVô thường đúc kết thành tư tưởng cơ bản của giáo lý Duyên khởi. Tư tưởng Duyên khởi Trung quán triệt để triển khai từ cơ bản học thuyết tính Không, hoặc có thể nói ngược lại tư tưởng tính Không lại là cơ sở lập cước của học thuyết Duyên khởi, như Long Thọ kết luận “tính Không, Duyên khởi cùng Trung đạo, cả ba cùng không khác”, nên ngài cũng khẳng định vắn tắt trong Trung quán luận “không hiểu tính Không thì chẳng hiểu được Phật pháp”. Vì vậy trong tiểu chú về tính Không và Cơ học Lượng tử, chúng ta phải thấy tính Không trong tương quan với tư tưởng Duyên khởi, Vô ngãVô thường như thế. Nāgārjuna and the Quantum World 2

* * *

Tính KhôngVô ngã

Śūnya có nghĩa là “không, trống không, trống rỗng, rỗng lặng”. Chữ śūnya chính nó không có ý nghĩa riêng biệt hay siêu hình nào mà chỉ mang ý nghĩa tùy theo nội dung của câu văn. Chữ Hán dịch śūnya là 空 Việt ngữ dịch là không, trống không và Anh ngữ dịch là empty, void thì đều dễ hiểu. Śūnya chỉ trở nên khá phức tạp khi nó là danh từ Không hay tính Không (śūnyatā 空性).

Truyền thống Theravāda thường phân tích tính Không (Pali: suññatā) trong tư tưởng về tư tưởng Vô ngã để cho thấy “Thế giới là không vì không có tự ngã và tất cả những gì thuộc về tự ngã”. Truyền thống Đại thừa thì thường giảng luận về tính Không trong nghĩa không của tư tưởng duyên khởi “Vạn pháp đều là không vì vạn pháp chỉ là duyên hợp”. Vạn vật hiện diện chỉ vì sự tương tác giữa nhiều nhân duyên của chúng. Vạn vật không thể tự hiện hữu và không thể hiện hữu độc lập (nên gọi là Vô ngã) và vạn vật cũng luôn luôn biến chuyển với các duyên (nên gọi là Vô thường) - và vì thế không thường tại và không vĩnh viễn.

Như thế chúng ta thấy vô ngãvô thường chính là nội hàm của giáo pháp duyên khởi. Vô ngãvô thường đúc kết thành nội dung của tư tưởng tính Không. Tư tưởng Bát-nhã và Trung quán triệt để triển khai từ cơ bản học thuyết tính Không, hoặc nói ngược lại, tư tưởng tính Không là cơ sở lập cước của học thuyết Trung quán. Long Thọ là người xây dựng cho tư tưởng này trở thành lập cước (foundation) của các tông môn Đại thừa hằng khẳng định

“Nếu có người hỏi, mà lìa nghĩa tính Không để tùy tiện trả lời. Thì sự trả lời đó không trả lời gì cả, chỉ lẩn quẩn ở chỗ nghi ngờ như câu hỏi.

Nếu có người hỏi khó, mà lìa nghĩa tính Không để tùy tiện thuyết giảng. Thì vấn nạn không được giải quyết, không thoát chỗ đã hoài nghi như câu hỏi”3 .

D.T. Suzuki trong bộ sách Thiền Luận danh tiếng giới thiệu Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh (Prajñā Hṛdaya 般若波羅蜜多心經 viết tắt là Tâm kinh): “Điều đơn giản đầu tiên đánh vào tâm lý chúng ta khi đọc Tâm kinh là nó hầu như chỉ là một chuỗi những phủ nhận, và cái mà được gọi là tính Không chính là một chủ thuyết phủ nhận tất cả, với mục đích tận cùng của nó là giải giới mọi sự vào một cái trống không”4 . Đó không phải là điều nhận xét riêng của Suzuki, mà là ấn tượng chung của tất cả người đọc tụng Tâm kinh. Cho nên nếu Tâm kinh chỉ là một chuỗi phủ nhận như thế, thì có lẽ chúng ta chỉ có thể tiếp cận được tư tưởng Tâm kinh qua tư tưởng tính Không. Cuối cùng Phật giáo dù có nhiều tông môn, nhưng tất cả đều có chung một đạo lý về tính khôngduyên khởi, nên Hồi tránh luận cũng kết luận tương tựCon đảnh lễ Đức Thế Tôn vô thượng đại trí tuệ, người dạy thuyết tính Không, Duyên khởi cùng Trung đạo, cả ba cùng không khác”5 .

Chuỗi phủ nhận của Tâm kinh thật ra cũng chỉ là sự phủ nhận quen thuộc như thế trong Phật học. Cho nên khi Tâm kinh nói vô nhãn nhĩ tỉ thiệt, vô sắc thọ hành tưởng v.v. thì đây cũng chỉ là danh sách ngắn gọn của một vài danh xưng quen thuộc trong cách nói “nhất thiết pháp không” (các hiện tượng đều là không) của giáo lý Duyên khởi (pratityasamutpāda). Vạn pháp là không có nghĩa là chúng chỉ hiện hữu trong liên hệ hỗ tương với muôn vạn nhân (nhân do, yếu tố tạo tác) và duyên (điều kiện, điều kiện tạo tác). Nên ngoài cái tính Không này, Phật học có danh từ gọi chung các pháp là “giả hữu” (giả có - prajñapti). Giả hữu tức là cái có tạm thời, tức là cái hữu trên phương diện tri thức thông tin (conventional truth / Tục đế). Trong tư tưởng Trung quán, mọi hiện tượng không bao giờ hiện hữu độc lập hay đứng yên để người ta thấy nó là nó (it in-itself). Vạn vật chưa bao giờ là nó, nhưng chúng ta vẫn có thể thấy nó hiện hữu trong sự tương tác của các nhân và duyên. Nên ta gọi nó là giả hữu và là cái hiện hữu mà ta gọi là biểu kiến (phần biểu tướng của hiện tượng), cho nên Long Thọ mới nói bản tính của vạn vật là không, vắn tắttính không (śūnyatā) 6 . Tính không phải hiểu theo nghĩa này.

Anh ngữ thường dịch śūnyatā là emptiness hay voidness. Hán văn dịch śūnyatā là 空性 (Không tính, tính Không) hay 空 (Không), thì cái Không này cũng có nghĩa là Vô ngã (vì không có Tự tính) và Vô thường (vì không thường trụ). Nói cách khác, vạn vật là Không (śūnya) vì không có “tự tính” (svabhāva). Tóm lại, sự hiện hữu của một hiện tượng nào đó không phải vì nó là nó se et per se, vạn vật không là nó (thing in-itself) nên gọi là không. Theo giải thích của Long Thọ, các hiện hữu (bhāva) đều không có cái gọi là tự tính (svabhāva) của riêng nó để nó có thể hiện hữu độc lậpvĩnh viễn. Tóm lại, tất cả các hiện tượng chỉ hiện hữu trong tương tác với các nhân duyên khác - mà ta gọi là biểu kiến (cái thấy trong liên hệ tương quan) và luôn luôn biến động theo các duyên (điều kiện tạo tác, conditions) - nên cũng gọi là Vô thường (không thường trực, không trường cửu)

Tính Không (śūnyatā / emptiness) là một lập cước của triết học Long Thọ và là tư tưởng chủ đạo trong các luận của Long Thọ, là nội hàm của giáo pháp Duyên khởi. Trong Trung luận, Long Thọ đã dùng rất nhiều kệ trong nhiều phẩm khác nhau để giải thích về tính không. Đặc biệt là ở 40 bài kệ của phẩm “Quán Tứ đế”, Long Thọ cho thấy tính Khôngquan điểm đối nghịch với quan điểm tự tính (svabhāva)7 . Vì vậy luôn luôn Long Thọ phủ nhận tự tính và còn nói rõ tự tínhđịnh tính (tính duy trì nguyên trạng) và như nếu vạn vậttự tính như thế thì thế giới sẽ là một thế giới bất động. Trái với người không hiểu tính không mà cho đó là chủ nghĩa hư không, Long Thọ lại cho thấy ngược lại, chỉ vì tính khôngvạn vật mới thay đổi và mọi hiện hữu mới thành tựu “Thực ra vì có nghĩa của Không nên tất cả mọi hiện hữu mới thành tựu. Nếu không có nghĩa của Không, thì mọi hiện hữu đều không thành tựu”. Nói một cách cụ thể, vì tính khôngVô thường (không cố định, không thường trực) nên vạn vật mới thay đổi và sinh trưởng, mầm mới ra hoa, cây mới kết trái, và trong bình diện Phật Pháp mới nói là có thể diệt được vô minh, diệt được khổ.

Ba tầng ý nghĩa của tính Không

Đại đa số người học Phật, người bình thường cũng như học giả, đầu tiên đều rất hoang mang về ý nghĩa chữ Không và tính Không. Đặc biệt là phần lớn độc giả người Việt lại thường bị các nhà văn ngày sau hay lộng ngôn với hai từ ngữ rất ư là thú vịbí hiểm này trong cả một trường thiên dung tục “có thì có tự mảy may, không thì cả thế gian này cũng không” trong không khí vừa huyền bí vừa lãng mạn “có có không không mơ màng” từ thơ văn “sách không chữ, sáo không lỗ, đàn không giây” cho đến các loại truyện kiếm hiệp “vô chiêu thắng hữu chiêu” của thiền “tu vô tu tu, hành vô hành hạnh”…

Cao cấp hơn nữa là có người còn mang kinh điển ra chứng minh những điều “có có không không” nào đó, để kết luận một cách hoang đường “cả hai đều đúng, cả hai đều sai…” Chúng ta phải cúi chào sức mạnh dung tục của thế giới quần chúng này8 . Nhưng quả thật kinh Phật có dạy lúc Hữu lúc Vô như thế không? Chúng ta đã nghe trong Trung luận ngài Long Thọ giảng về Nhị đế, và trong Đại Trí độ luận, ngài còn giảng kỹ về hai loại là “kinh bất liễu nghĩa” (kinh dùng làm phương tiện tạm thời, dành cho một số đối tượng) và “kinh liễu nghĩa” (kinh nói về chân thật nghĩa tuyệt đối). Nên có trường hợp kinh này nói khác kinh kia có nghĩa là Đức Phật hoàn toàntrình độ thính chúng mà nói Pháp.

Tóm lại theo giải thích này, kinh bất liễu nghĩa giống như với trẻ con người ta nói có “ông ba bị chín quai mười hai con mắt hay bắt trẻ con” ở Việt Nam hay “ông già Noel” ở Mỹ thế thôi. Với quần chúng sơ cơ hoặc như trẻ em thì chúng ta dễ hiểu, nhưng người chủ chùa lớn mà còn tổ chức lễ hội lớn mời “thày ngoại cảm” đến dạy thờ vong hay theo vong tìm xương cốt chiến sĩ đã mất từ mấy chục năm trên núi trong rừng, để chiều theo thị hiếu tín đồ hay chiêu mộ quần chúng thì thật đáng buồn lắm.

Sự thật kinh luận dạy chúng ta rất rõ ràng. Kệ đầu tiên trong Thất thập Không tính luận ngài Long Thọ đã giải thích “Chư Phật dạy về sinh trụ hoại, về hữu và vô, về cao và thấp, là tùy thuận theo thế gian chứ không phải là chân thật nghĩa”. Trong Trung luận, Long Thọ cũng nói “Chư Phật tùy thuận theo chúng sinh mà giảng về giáo pháp Nhị đế. Tục đếchân lý phổ quát của thế giới thông tục, và Chân đếchân lý giải thoát tối thượng thừa”. Trong luận phổ biến hơn là Trí độ luận Long Thọ còn giảng chi tiết về “Tứ tất-đàn” (“bốn thành tựu” hay “bốn loại kinh điển giáo pháp”). Theo đó tất cả 12 bộ kinh đều có thể chia làm bốn giáo pháp đối trị với các chủng loại chúng sinh.

1. Thế giới Tất-đàn là kinh điển giảng giải giáo pháp căn bản tổng quát cho tất cả chúng sinh.

2. Vị nhân Tất-đàn là kinh điển nói tùy theo căn cơ của thính chúng.

3. Đối trị Tất-đàn là kinh điển đối trị với từng căn bệnh của từng chúng sinh, như lương y tùy theo con bệnh mà cho thuốc.

 

4. Đệ nhất nghĩa Tất-đàn là chân nghĩa giải thoát, đó chính là giáo nghĩa Bát-nhã ba-la-mật. Nhưng liền sau đó, luận cũng chú thích rõ ràng là tuy chia làm bốn loại tất-đàn để đối trị tùy trường hợp chúng sinh, nhưng chúng đều là chân thật Pháp, chẳng có gì trái ngược nhau9 .

Vì vậy ở đây tôi muốn nói thêm về thực tế chúng ta có nhiều ý nghĩa về Không và tính Không như những cách đối trị khác nhau tùy thuận theo tâm lýtrình độ thính chúng. Trong nghĩa này ta có thể đồng ý và phát triển ba tầng ý nghĩa của tính Không như Cát Tạng từng gợi ý10.

Tầng thứ nhất, gọi là tính Không śūnyatā để phủ nhận các pháp và ý niệm thông thường, đó là cách dùng nghĩa “không” để phủ nhận “hữu”. Trên phương diện hành trì cụ thể, kinh luận thường dạy “vạn pháp giai không” như thế lấy nghĩa tính không như một khí cụ để giúp người ta giải thoát khỏi tham ái (“không” phủ nhận “các cái có”).

Tầng thứ hai, tính Không śūnyatā là tư tưởng lập cước để phủ nhận những chủ thuyết cực đoan hư vô lẫn thường trụ (về vũ trụvạn pháp thế gian). Trong thực tế hành trì giáo pháp “tính Không” được dùng để củng cố giáo pháp Vô ngã (không thể có một cá thể hoàn toàn tự chủđộc lập với thế giới quanh nó) và giáo pháp duyên khởigiáo pháp cơ bản của toàn bộ giáo lý Phật giáo (không thể có một hiện tượng tự hiện hữu ngoài sự tương tác với nhân - nhân do tạo tác, và duyên - hoàn cảnh tạo tác).

Tầng thứ ba, đây mới là chân nghĩa của tính Không (mục đích của giáo pháp tính Không). Vì một khi xem tính Không như một tư tưởng hay phương tiện để phủ nhận sắc (các hiện tượng) hay dùng tính Khôngphương tiện để phủ nhận những quan điểm nhất nguyên, nhị nguyên, đa nguyên thì chính tính Không lại trở nên một đối tượng - có nghĩa là trở nên một trở ngại khác vi tế hơn. Nói cách khác, Không bây giờ lại là Sắc. Cho nên ở tầng thứ ba này trong chân nghĩa của tính không là phải phủ nhận ngay cả chính nó. Vì vậy tại sao ở Bát-nhã Tâm kinh sau khi nói “sắc tức thị Không” còn nói tiếp “Không tức thị sắc” để hành giả hoàn toàn cắt đứt mọi tư tưởng nhị nguyên tương đối, buông bỏ mọi hình tướng sắc để đạt đến “vô ngại” (không còn mâu thuẫn) và vô ngại chính là sự thể nghiệm chân nghĩa của tính không (tức là cứu cánh giải thoát)

Như thế, đúng như chúng ta vừa nói, ý nghĩa tối hậu của tính Không chính là sự thể nghiệm tính Không. Đây là thực nghiệm hành trì, là phương pháp quán chiếu vượt bỏ cả giáo nghĩa tính Không để đưa đến vô ngại (không còn thấy mâu thuẫn). Một khi hành giả không còn bám víu vào bất cứ gì khác, tất cả những ý niệmcác loại chấp thủ hoàn toàn bị diệt trừ thì tính Không śūnyatā cũng biến mất và chỉ còn là “Tự tại Tuyệt đối” (Ultimate Reality) - là tên khác của Trí tuệ Giải thoát (prajñā parāmitā) đồng nghĩa với Niết-bàn giải thoát Nirvāṇa. Nói cách khác, thể hiện tính KhôngGiải thoát.

Tóm lại, tính Không là một chủ đề lập cước của triết học Long Thọ và là tư tưởng chủ đạo của tất cả các luận của Long Thọ. Không nên hiểu như nhiều luận sưtriết gia Tây phương hiện đại thường hiểu lầm tính Không như quan điểm (dṛṣṭis) hay lập trường (pratijñā) của Long Thọ. Đây là một hiểu lầm cơ bản. Long Thọ luôn luôn nhấn mạnh rằng tính Không chỉ là một “khái niệm tùy thuộc” prajñapti (Trung luận XXIV.18) - có nghĩa tính Không chỉ được dùng như một giả hữu, “thi thiết” (prajñapti), phương tiện thiện xảo (upāya) tùy thời mà ứng chế - dùng để “phản bác hóa giải các kiến giải” śūnyatādṛṣṭis (Trung luận XIII.9) - Vì vậy nếu xem tính Không như một quan điểm (dṛṣṭis) để lý luận tranh cãi hay bênh vực thì theo Long Thọ chính là đã ngược lại với chân nghĩa của tính Không: “Phật thuyết giảng về pháp tính Không śūnyatā, là để ta lìa bỏ những định kiến. Nhưng nếu ta lại cho Không là có thực, thì chư Phật cũng chẳng còn cách nào dạy nữa”. Cho nên, Long Thọ luôn luôn cảnh tỉnh những kẻ căn tính nông cạn ám độn không có khả năng quán nhập tính Không nhưng ưa thích dùng ngôn ngữ để ba hoa “có có không không” thì chỉ là tự dối mình lừa người thì cuối cùng cũng chỉ hại mình hại người mà thôi”.

Tính Không và Quantum Physics

Cơ học lượng tử (quantum mechanics)11 hay rộng hơn là vật lý lượng tử (quantum physics) là phần mở rộng, bổ sung và đào sâu hơn hệ thống cơ học cổ điển Newton. Cơ học lượng tử là một khám phá sâu sắc và cơ bản nhất của thời đại, mở đầu cho kỷ nguyên khoa học mới, khai phá những lãnh vực kỳ thú mà con người trước đây thường gọi là khoa học giả tưởng. Cơ học lượng tử hiện đại không những nói y hệt Long Thọ hay Bát-nhã Tâm kinh mà còn chứng minh được giáo ly tính Không trong những lời tuyên bố khó hiểu như “ngũ uẩn giai không” hay “bất sinh bất diệt”, v.v. khi khẳng định tính bất định (uncertainty principle) của vạn vật. Có nghĩa là vũ trụ và mọi hiện tượng đều là biến động và xác suất (bất khẳng định) chứ không phải là một thế giới cụ thể cố định, phân minh, rõ ràng và tiên đoán được như chúng ta đã biết trước đây trong khoa học theo quan điểm Newtonian-Cartesian.

Đại cương, khoa học lượng tử khẳng định tính bất định của vạn vật, có nghĩa là vũ trụ và cuộc sống là biến động và xác suất, chứ không phải là một thế giới cụ thể cố định và phân minh, thì chính đó là cơ sở của giáo lý tính Không của Long Thọ. Tôi viết sách Nāgārjuna and the Quantum World nhưng chỉ viết về triết học Nāgārjuna với các thị kiến của ngài mà chúng ta có thể so sánh với khoa học hiện đại để giúp độc giả dễ tiếp cận tư tưởng tính Không chứ không muốn làm việc ngược đời là dùng quantum physics để chứng minh tư tưởng của Nāgārjuna12. Đây cũng là lời giới thiệu về sách Nāgārjuna and the Quantum World sẽ được tiếp tục trình bầy trong nhiều chủ đề khác sẽ được trình bầy trên Văn Hóa Phật Giáo.

Chú thích:

1. Vì vậy, các học giả hành giả Phật giáo thật sự đều không quan tâm đến việc nhiều tông môn Phật giáo phát triển về sau vì thấy rõ bản chất “nhất thừa” của tất cả, ngoài thực tế là sự phát triển Phật giáo (hay bất cứ một học thuyết nào) trong lịch sử đều phải phát triển dựa trên sự khế hợp với văn hóa bản địa. Chính Đức Phật đã đề ra nguyên lý này khi Ngài khuyến cáo các nhà truyền giáo đầu tiên của Phật giáo khi hoạt động khắp nơi phải dùng ngôn ngữ bản địa và không cho phép hai đệ tử trí thức đương thời khi họ xin dùng ngôn ngữ “quí phái” là Sanskrit để “thống nhất” và “qui phạm hóa” giáo lý của ngài. Đó chính là lý tưởng “tùy duyên bất biến” và “khế lý khế cơ” mà về sau Phật giáo Đại thừa hay nói đến.

2. Vũ Thế Ngọc, Nāgārjuna and the Quantum World, nguyên tác bằng Anh ngữ gửi trong Hội nghị Triết học Phật giáo, được tác giả mở rộng và chuyển dịch qua Việt ngữ.

3. Vũ Thế Ngọc, Triết học Long Thọ, Nxb Thế Giới, 2016, tr.131.

4. Suzuki, D.T. Essays in Zen Buddhism. London: Rider & Co. 1973, tr.27.

5. Vũ Thế Ngọc, Long Thọ Hồi Tránh Luận, nxb Hồng Đức 2017, tr.238.

6.śūnyatā “the state of śūnya”. Tiếp vĩ ngữ -atā trong Phạm ngữ giống như -ity / -ness trong Anh ngữ thêm vào một từ để tạo danh từ trừu tượng chỉ tình trạng (state) hay phẩm chất (quality) của từ đó (emptiness, voidness, loneliness…).

7. Nhắc lại Tự Tính (svabhāva) theo đức tin Bà-la-môn là phần “linh hồn” bất biến của mọi hiện tượng,. Theo đó vạn vật nhờ có tự tính mà tự sinh (trái với thuyết Duyên khởi). Trong tất cả các luận của Long Thọ, ngài đều phản bác đức tin vào cái Tự Tính này và khẳng định tư tưởng tự tính hoàn toàn tương phản với giáo lý Duyên khởi của Phật giáo, nên kết luận “Nếu thừa nhận giáo pháp Duyên khởi thì phải thừa nhận vạn pháp không có cái gọi là tự tính, còn đã chấp nhậntự tính thì không thể thừa nhận giáo lý Duyên khởi” Trung luận XV.1&2.

8. Nhiều chùa lớn ở Sài Gòn các chủ chùa tự thuyết pháp hay mời các nhà “ngoại cảm” có tiếng đến chùa để nói chuyện về vong linh hay tìm xương cốt các chiến sĩ tử trận. Để đối trị với các loại thày này cũng trong Đại Trí Độ luận ngài Long Thọ cũng đã giảng về pháp “y pháp bất y nhân” (nương tựa theo chính pháp chứ không theo người nói pháp) rất rõ ràng trong Tứ y pháp (y pháp bất y nhân, y nghĩa bất y ngữ, y trí bất y thức, y liễu nghĩa kinh bất y bất liễu nghĩa kinh).

9. Trí độ luận, phẩm Duyên khởi, quyển I.

10. Vũ Thế Ngọc, Long Thọ Hồi Tránh Luận (sđd).

11. Cơ học lượng tử được hình thành do  nhiều nhà khoa học tiền phong xuất hiện từ thế kỷ XX như Max Planck, Albert Einstein, Niels Bohr, Werner Heisenberg, Erwin Schrödinger, Max Born, John von Neumann, Paul Dirac, Wolfgang Pauli… Sau lớp tiền phong về cơ bản lý thuyết vật lý, hầu hết các nhà khoa học ưu tú ngày nay còn mở sâu nghiên cứu trong các lãnh vực khác. Điển hình là hầu hết các giải thưởng khoa học cao quí trong những thập niên vừa qua hầu như đều trao cho những nghiên cứu liên quan đến lượng tử.

12. Đây là bệnh chung của một số người (thường không tinh thâm Phật học lẫn khoa học) có ảo tưởng dùng “khoa học” để chứng minh cho Phật học

Vũ Thế Ngọc | Văn Hóa Phật Giáo số 315 ngày 15-2-2019

Thư Viện Hoa Sen

 



#71
tritanngo99

tritanngo99

    Đại úy

  • Điều hành viên THPT
  • 1644 Bài viết
VÔ MINH & KHOA HỌC NÃO BỘ
Thái Minh Trung, M.D

Vô minh là một danh từ phát xuất từ Phật giáo. Dân gian ai đi chùa thì ít ra cũng quen thuộc với khái niệm “tham, sân, si”. Si mê hay vô minh nói lên một tâm trạng thiếu sáng suốt đưa đến những hành động tội lỗi trái luân lý. Khi học đạo, người ta nghĩ rằng vô minh chỉ là một khái niệm có lẽ nghiêng về luân lý (ethics) nhiều hơn là khoa học. Gần đây, khi khoa học và tâm lý học phát triển, người ta mới bắt đầu hiểu rằng vô minh có cơ sở khoa học.

vominh-khoahocnaobo.jpgloài người, nguồn gốc của vô minh có thể giải thích qua sự phát triển của não bộ. Khi các nhà nhân chủng học (anthropologist) nghiên cứu sự phát triển não bộ của con người qua hàng triệu năm, bằng cách đo xương sọ từ đó suy ra dung tích của não bộ, thì nhận thấy rằng sự khác biệt giữa loài ngườivăn minh và loài khỉ là ở vỏ não (cortex). Não của loài người có 2 phần, phần nằm trong sâu gọi là hệ thống limbic (limbic system), phần này mọi sinh vật đều có, và phần vỏ não phát triển tột bựcloài người.

Hệ thống limbic là vùng não phát triển rất sớm, nghiêng về tình cảm và bản năng. Nhờ có bản năng nên con người nguyên thủy mới có thể sống sót và truyền giống nòi. Nói cách khác, khi đứng trước thức ăn mà không thèm ăn, gặp người khác phái mà không có ham muốn tình dục và khi gặp kẻ thù ăn cắp thức ăn và bắt cóc vợ con mà không giận dữ thì loài người sẽ mất sự tồn tại trên thế gian và mất khả năng truyền gene lại cho thế hệ sau. Ở loài khỉ, con khỉ đực nào có nhiều testosterone (kích thích tố nam), chiến đấu chống lại những con khỉ đực khác (sân) thì sẽ có vị trí đầu đàn và có quyền giao hợp với nhiều khỉ cái (tham). Hiểu như thế, tham và sân là bản năng để con người tiền sử sống còn. Ở thế giới động vật bản năng tự nó điều chế. Thức ăn nhiều thì sanh sản nhiều, thức ăn ít thì ham muốn sinh dục ít đi và sinh sản bớt lại.

Khi não bộ chưa phát triển và loài người tiền sử sống với sự điều khiển của bản năng thì chiều hướng của bản năngbảo vệ sự sống còn của giống nòi. Tuy nhiên, trên đà tiến hóa của não bộ thì phần vỏ não (cerebral cortex) phát triển rất nhanh, nhờ đó tạo cơ hội cho sự phát triển của ngôn ngữý thức (consciousness). Ý thức được khoa học định nghĩa là sự nhận thức ra cá nhâncá nhân đó khác biệt với người khác. Khi ta nhìn ta trong gương, ta nhận ra hình ảnh của chính mình, đó là ý thức cá nhân. Hình ảnh của người kế bên không phải là ta. Sự phân biệt so sánh này là nguồn gốc của cái “tôi”. Bản chất của cái tôi là ý muốn khác biệt và hơn trội người khác. Cái tôi gây ra rất nhiều vấn đề chúng ta sẽ đề cập ở phần sau.

Cũng vào thời điểm này, những bộ lạc dần dần sống chung thành một xã hội. Nhờ vỏ não phát triển nên con người nguyên thủy có sự sáng tạo quy ước dùng một âm thanh để diễn tả ý nghĩ và tình cảm. Ngôn ngữâm thanh, phát ra rồi mất đi. Người ta chế ra chữ viết để lưu truyền ngôn ngữ. Nhờ có ngôn ngữ, chữ viếtđời sống xã hội nên những phát minh mới và hiểu biết mới của một người được nhiều người áp dụngbiến chế tốt hơn. Đây là nền tảng của khoa học. Nhờ có chữ viết nên kiến thức được lưu lại sau khi con người qua đời. Nhờ vậy, sự hiểu biết của loài người lưu truyền được và phát triển cực kỳ nhanh. Giả sử ta có một thần đồng sống biệt lập trong rừng thì những phát minh khoa học sẽ không có phương tiện phát triển thành sản phẩm khoa học.

Tuy nhiên, sự phát triển nhanh chóng của vỏ não và sản phẩm của nó là ngôn ngữ và khoa học kỹ thuật cũng có những cái hại của nó. Con người không biết tự điều hòa như thiên nhiên. Con người có sự ý thức để hiểu biết thiên nhiên, tuy nhiên sự phát triển vượt bực của ý thức không đi đôi với sự trưởng thành của tình cảm. Từ đó mà những sản phẩm của khoa học kỹ thuật có thể làm đảo lộn cái trật tự quân bình của thiên nhiên. Hồi xưa, với cây búa rìu, muốn đốn cây thì không đốn được bao nhiêu nên thiên nhiên được bảo tồn. Ngày nay, với công cụ tối tân, người ta có thể đốn hết khu rừng trong nháy mắt. Đây mới là cái tham, sân, si mà tôn giáo đề cập đến và con người cần thay đổi.

Cái phản ứng phụ của trí khôn là cái ý muốn sở hữu. Con người muốn sở hữu đồng loạithiên nhiên. Ngay từ thời nguyên thủy, những bộ lạc thắng trận thường bắt những người thua trận làm nô lệ cho mình. Điều này xảy ra cho tới thế kỷ thứ 19 với người da đen làm nô lệ cho chủ đồn điền da trắng. Trong tình yêu, ta muốn giữ người ta yêu cho riêng mình. Cha mẹ muốn con cái làm theo ý mình. Nếu con cái không theo thì đôi khi cha mẹ từ con ra và gán cho con cái tên hư hỏng. Trong tôn giáo, kẻ không cùng tín ngưỡng là kẻ ngoại đạo. Ở thiên nhiên, cái sở hữu quá độ như đốn rừng hay lưới cá một cách cẩu thả ảnh hưởng xấu đến môi trường sinh hóa.

Ngoài ra, con người còn muốn sở hữu năng lượng (đất và nước) của quả địa cầu, chia ranh giới và gây ra tranh chấp. Đối lậpxung đột là sản phẩm của trí khôn và của cái tôi. Khi trí khôn phát triển, con người muốn mình khác với người khác vì đặc tính của trí khôn là sự sáng tạo. Nhưng sự sáng tạo này nằm trong một khuôn khổ cứng rắn. Khi ta gắn một tính từ đúng sai hay xấu tốt lên một người nào đó thì ta mất cái khả năng nhìn sự thật. Ta chỉ thấy trắng hay đen. Ta thương người theo mình (tham) và ghét bỏ người không theo mình (sân). Ta mất cái nhìn trung dung.

Mất khả năng nhìn sự thật khách quan và muốn vũ trụ xoay quanh theo ý mình là nguồn gốc của vô minh và cũng là nền tảng của cái tôi. Một người có thể khôn xuất chúng nhưng vẫn có thể bị màng vô minh che đậy tâm trí. Sự nhận thức và bỏ theo quỹ đạo của cái tôi tạo ra vô số mâu thuẫn căng thẳng trong nhiều lãnh vực: gia đình, xã hội, chính trị và tôn giáo. Trong vô minh, con người có thể dùng trí khôn biện hộ cho hành động sai lầm thay vì dùng trí khôn giúp mình thay đổi để đáp ứng hoàn cảnh. Khi chưa được cái mình muốn, con người sanh ra lòng tham và khi mất cái mình được thì sân hận.

Độc giả hãy thử phân tích hoàn cảnh này xem sao. Ông A di du lịch và làm quen được với ông B. Hai người nói chuyện, trao đổi với nhau vui vẻ. Một ngày nào đó đất nước ông A và ông B trở thành thù nghịch. Hai người bị động viên. Khi khoác áo nhà binh lên người thì 2 người trở thành thù nghịch và sẵn sàng giết nhau, mặc dù không có mối hận thù cá nhân riêng biệt. Như thế mới hiểu được cái tai hại khi chúng ta gán cho người khác cái nhãn hiệu mà không hiểu được sự thật. Chuyện như thế xảy ra rất nhiều và thịt rơi, máu đổ cũng vì hiểu lầm.

Nhìn lại lịch sử con người, ta thấy những trường hợp như vậy xảy ra rất thường xuyên. Khi một chính phủ hay một cơ quan tôn giáo xác nhận một nhóm người khác là “kẻ thù” hay “ngoại đạo” rồi thì sự sát nhân hàng loạt xảy ra rất dễ dàng. Thời Trung cổ có tòa án dị giáo (inquisition tribunal) giết chết hàng loạt người không theo Thiên Chúa giáo, rồi đến Thánh chiến (Crusade). Thời thực dân (colonial), người da trắng coi người da đen là dòng giống kém và đến châu Phi bắt cóc họ làm nô lệ cho các đồn điền. Vào đệ nhị thế chiến, Hitler ra lệnh giết hàng loạt người Do Thái (holocaust). Gần đây hơn thì chế độ kỳ thị Apartheid ở Nam Phi vẫn không công nhận quyền lợi bình đẳng của người da đen.

Sở dĩ vô minh xảy ra vì tư tưởngtrí khôn loài người chưa phát triển để đạt đến khả năng trực nhận thực tế (danh từ Phật giáo gọi là giác ngộ). Sự truyền đạt thông tin của tư tưởng rất hạn chế. Có lẽ vì thế con người thích có một khuôn mẫu hiểu biết có sẵn để nương theo. Ở những xã hội sơ đẳng (lúc đó chưa có những phương tiện truyền thông như TV và radio) thì ca dao tục ngữ là những công thức cho dân gian kém học thức nương nơi đó mà cư xử với nhau cho thích hợp. Ngoài ca dao tục ngữ thì có những chuyện cổ tích để cho người ta noi theo gương tốt. Những phương pháp truyền đạt kiến thức kể trên rất đơn sơ và chỉ thích hợp với một số nhỏ người, hạn chế ở địa lý cư ngụ của những người đó. Thí dụ như ca dao về mùa màng ở miền nhiệt đới không thích hợp với dân miền ôn đới.

 

Độc giả nên phân biệt giữa hiểu biếtdiễn đạt hiểu biết. Hiểu biết của ông thầy có thể diễn ra trong nháy mắt, nhưng khi người thầy giáo dùng tư tưởng, suy nghĩ để giải thích sự hiểu biết đó cho học sinh thì phải mất nhiều thời giờ hơn. Ngoài ra, sự truyền đạt hiểu biết qua tư tưởnglời nói không thể nào trung thựcđạt được 100% dữ kiện chứa trong cái trực hiểu của ông thầy. Tệ hơn, đôi khi người nói một đường, kẻ hiểu một ngả. Càng cố chấp trên suy nghĩ thì sự hiểu lầm càng sâu hơn. Nếu người sở hữu kiến thức (trò) áp dụng một cách cứng rắn thì khả năng đáp ứng thực tế của họ càng kém hơn người (thầy) tạo ra kiến thức đó. Vì thế, muốn xã hội tiến bộ thì trò phải hơn thầy. Nếu ông thầy sợ học trò hơn mình và không truyền đạt hết kiến thức, và người học trò không hiểu hơn thầy mình thì xã hội sẽ đi lùi. Hiểu như thế, tinh thần vô ngãthái độ cần có để xã hội phát triển.

Các mạch thần kinh ở não bộ con người khác với mạch máu. Mạch máu có đường đi nhất định. Những mạch thần kinh có khả năng kết nối với nhau một cách uyển chuyển (plasticity of the nervous system). Những người bị tai biến mạch máu (stroke), mất hết một phần của não bộ nhưng vẫn có thể phục hồi một phần nào chức năng cơ thể vì các tế bào thần kinh ráp nối với nhau tạo ra mạch thần kinh mới để thông qua những tế bào thần kinh bị chết, từ đó bệnh nhân có thể sử dụng trở lại những bắp thịt bị tê liệt. Cũng như thế, khi ta không cố chấp thì khả năng kết nối của hệ thống thần kinh ta dồi dào hơn. Khi sự kết nối nhiều thì khả năng hiểu nhiều khía cạnh của một sự kiện tăng theo.

Khi chúng ta học hỏinhận thức một điều mới lạ thì những tế bào thần kinh sẽ liên kết với nhau nhiều hơn. Khi ta cố chấp vào một sự việc thì tế bào thần kinh không có sự ráp nối dồi dào, khiến ta không nhận biết được những dữ kiện khác của sự thật. Ta trở thành người mù sờ voi, chỉ thấy được một phần nhỏ của con voi và tranh chấp cãi lộn với những người khác thấy những phần khác của con voi. Vì thế, ở kẻ mê tín dị đoan, não bộ của họ mất sự uyển chuyển kể trên. Chính đây là nền tảng cơ sở khoa học não bộ của vô minh. Cái khó khăn là người vô minh không bao giờ nhận ra tâm trạng đó. Cũng giống như người bị điên (psychosis), cho rằng kẻ khác bất bình thường, còn mình thì hoàn toàn bình thường.

Làm sao ra khỏi cái vòng lẩn quẩn của vô minh khi mà người vô minh không nhận ra họ bị vô minh. Rồi một nhóm người vô minh tranh cãi biện luận với nhau để giành phần đúng về mình. Họ tạo thành nhiều băng đảng chính trị, chủ nghĩa quốc gia hay niềm tin tôn giáo khác nhau. Suy nghĩ càng biệt lập và khác biệt thì lòng tin tưởng lẫn nhau giữa loài người suy giảm trầm trọng và lòng lo sợ, hận thù tăng hơn. Nếu sự lo sợ tăng đến nỗi người ta mất khả năng dùng lý trí để thay đổi nhận thức thì nó trở thành cực đoan và bịnh hoạn (paranoid delusion). Đây là những cách người ta bảo vệ cái chủ nghĩa tư tưởng mà họ cho là đúng. Nói tóm lại, trong sự bảo vệ quá đáng đó, họ thiếu lòng tinsự suy nghĩ sáng suốt một cách trầm trọng.

Hiểu như vậy thì không có gì lạ khi hai tôn giáo chính của thế giới đề cao lòng tin (Ki tô giáo) và suy nghĩ sáng suốt (Phật giáo). Chúa và Phật có thể được coi là những bậc thánh nhân và cũng là những bác sĩ tâm lý đại tài. Sở dĩ những ấn tượng trên tâm lý của hai đạo này tồn tại đến ngày nay, có lẽ vì các vị thánh nhân này đã thấu hiểu được căn bệnh về tâm lý của loài người và nói trúng tim đen của loài người. Những vị này muốn mở đường hướng dẫn nhân loại - nói theo khoa học não bộ ngày nay - sử dụng não bộ của họ một cách hữu hiệu để tránh loài người dùng trí khôn sáng tạo vũ khí tự tiêu diệt lẫn nhau và tiêu diệt quả địa cầu. Khi trị được si mê thì tham và sân tự nó biến đi. Chính vì tham và sân là sự hiểu lầm do si mê gây ra.

Có cách nào nhanh nhất để trị cơn si mê, giấc mộng ngàn đời của nhân loại? Như ta thấy, khi nào con người còn có suy nghĩ đúng sai thì lúc đó sự tranh chấp sẽ không dừng. Suy nghĩ có thể vẽ ra ngàn lối khác nhau. Một khi suy nghĩ vẽ ra rồi thì ít khi nó chịu rời bỏ sản phẩm của nó. Con người phải tập vượt qua cái ý nghĩ chấp đúng sai. Con người phải tập lắng nghe chính mình và lắng nghe người khác. Chấp đúng sai là vội khóa mình trong một kết luận nông cạn. Khi còn suy nghĩ đúng sai thì cái suy nghĩ đó sẽ làm nhiễm (contaminate) cảm nhận sự thật. Suy nghĩ là hình bóng chứa dữ kiện của một hiện tượng đã qua. Khi ta giữ cái hình bóng đó trong tâm thì sự đáp ứng tức thời và khả năng nhận ra sự thật bị giảm đi rất nhiều.

Thí dụ như ông A vừa mới cãi lộn xong với vợ mình và bực bội lái xe ra khỏi nhà. Trong tâm trí ông còn những suy nghĩ lẩn quẩn về câu chuyện không vui vừa xảy ra. Tâm ông bị phân trí và suýt nữa ông vượt đèn đỏ gây ra tai nạn. Khi vào sở, ông nạt nộ với nhân viên trong sở gây ra nhiều căng thẳng. Ở trường hợp trên, ông A vì suy nghĩ về chuyện quá khứ nên mất khả năng nhận ra hiện tại, như đèn đỏ và không đáp ứng với hoàn cảnh hiện tại trong sở (nhân viên khônglỗi lầm mà bị nạt).

Ở mọi hoàn cảnh trong cuộc sống, nếu ta làm chủ được những dòng tư tưởng suy nghĩ hiện ra trong đầu, không dùng những dữ kiện của quá khứ để đối phó với hiện tại hay phỏng đoán tương lai thì khả năng nhận thức tức thời tại thời điểm hiện tại (here and now) sẽ rất nhạy. Phát triển cái nhận thức tức thời không qua suy tư được gọi là thiền. Nghiên cứu cho thấy não bộ con người phản ứng với những hình bóng suy nghĩ dựng ra y như sự thật trước mặt. Rồi như thế chưa đủ, con người cố gắng diễn tả những hình bóng suy nghĩ đó bằng nghệ thuật điện ảnh. Khán giả thật sự vui buồn với cái ảo giác. Nếu ai cũng xem cái thực tế của phim ảnh là những hình bóng màu mè phản chiếu lên màn ảnh thì công nghiệp điện ảnh sẽ bị phá sản từ lâu rồi.

Bây giờ độc giả hãy tưởng tượng rằng chỉ có một màn ảnh mà có đến nhiều người muốn đồng lượt chiếu phim của mình lên trên đó. Như thế những hình bóng trên màn ảnh rất rối loạn, chính sự rối loạn đó là vô minh. Ai cũng muốn la lớn là tôi hay, tôi đúng, mọi người nên theo tôi. Không ai nghe ai và không ai chịu khó tìm hiểu người khác. Đó là vô minh. Đây là thảm trạng của xã hội hiện giờ, sự thành công được đo bằng mình trội hơn người khác. Có ai biết tại sao sản phẩm tiện nghi của khoa học càng nhiều, nhưng ngược lại với dự đoán, stress và những bịnh do căng thẳng tinh thần xảy ra nhiều hơn chăng? Bây giờ muốn cho mọi người nhìn thấy ánh sáng thì chúng ta phải tắt hết phim lại.

Tắt hết phim lại là để cho tâm tĩnh lặng. Khi tâm tĩnh lặng rồi thì người ta mới có cơ hội cùng nhìn về một hướng và hiểu một chuyện. Nếu tâm loạn động thì chỉ có hai người thôi mà xảy ra biết bao nhiêu chuyện phức tạp. Chỉ có một chuyện mà bị méo mó biến ra mười chuyện khác nhau. Cho nên để tâm tĩnh lặng thì màn vô minh bị mỏng dần và khả năng nhận định sự thậtthông cảm lẫn nhau tăng hơn. Khi vô minh mỏng dần thì tham biến thành trí tuệ thích hiểu biết và sân biến thành sự dũng cảm dám thay đổi tánh tình (tu). Khi vô minh mỏng dần thì não bộ sẽ có khả năng kết nối với những vùng mới lạ. Và từ đó đời sống tâm linh của nhân loại sẽ được phát triển và phong phú hơn.

Tâm tĩnh lặng không phải là một cái gì trừu tượng mà hiện nay khoa học có thể dùng điện não đồ EEG để đo được. Khi ta thư giãn để tâm tĩnh lặng thì tần số rung động của não bộ giảm xuống khoảng 8- 10 Hz, tần số này gọi là tần số Alpha. Những nghiên cứu cho thấy não bộ hoạt động hữu hiệu nhất ở tần số này. Đây cũng là cái tần số của tâm “vô ngã”. Đó là một tâm trạng sáng suốt với ý thức mở rộng để hiểu mình và hiểu người. Khi ta tập tâm tĩnh lặng ở tần số này, để mặt trời ý thức hiện ra thì những tư tưởng mây đen cố chấp của vô minh sẽ ít dần. Chúng ta rất may mắn sống ở thời điểm này. Với những kiến thức mới của khoa học não bộ, cái ranh giới giữa tôn giáo và khoa học sẽ mỏng dần. Hy vọng sẽ có một ngày người ta không còn giết lẫn nhau vì sự khác biệt tín ngưỡng. Ngày đó đa số con người sẽ sống với tần số Alpha và sẽ có tâm trạng “vô ngã”, biết lắng nghe và thông cảm lẫn nhau. Hòa bình thật sự chỉ có thể xây dựng được từ trong tâm mà thôi. 

Nguồn: Nguyệt san Giác Ngộ Số Vu Lan 185 / Tuyển Tập Vu Lan TVHS



#72
tritanngo99

tritanngo99

    Đại úy

  • Điều hành viên THPT
  • 1644 Bài viết

PHẬT GIÁO NỀN TẢNG CỦA KHOA HỌC
Hòa thượng Prayudh Payutto
Tỳ kheo Thích Tâm Quang dịch

phatgiaonentangcuakhoahoc.jpg

MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU

I. KHOA HỌC VÀ KỸ THUẬT
Một tiến bộ đáng ngờ
Sự rời bỏ khoa học và thiên nhiên
Hai loại kỹ thuật
Vị thế của đạo đức
Khoa học và kỹ thuật không thể rời nhau
Tiến đến mức giới hạn, không tìm đuợc câu trả lời
Gía trị và động cơ
Đàng sau sự thịnh vượng...
II. TÔN GIÁO VÀ KHOA HỌC
Từ cùng lúc chung khởi đến lúc chia rẽ
Nhiều tôn giáo, một khoa học
Tuy minh bạch nhưng vẫn bối rối
Khi niềm tin vào khoa học bị lung lay, sự sùng bái tôn giáo thăng hoa
Chẳng hơn gì những sai lầm ngớ ngẩn
Khi khoa học và tôn giáo hợp nhất, nhân loại sẽ nhận thức đuợc điều thiện tối thượng.
III. KHOA HỌC VÀ TÔN GIÁO: CUỘC GẶP GỠ HAY PHÂN LY?
Giống tôn giáo, nhưng ...
Tôn giáo thiên nhiên: hiểu biết thiên nhiên bằng trí tuệ
Thiện và ác
Nghiệp Luật - Luân lý khoa học
Vấn đề tự do ý chí
IV. NIỀM TIN TRONG KHOA HỌC VÀ ĐẠO PHẬT
Vai trò của niềm tin
Sự khác biệt giữa niềm tin trong Phật Giáo và khoa học
Con người hay cái tôi là trung tâm
Khoa Học chỉ tìm hiểu sự thật của các vấn đề bên ngoài con người.
Tương đồng trong phương pháp nhưng khác biệt trong việc đặt tầm quan trọng.
Những khác biệt trong phương pháp
V. TIẾN VÀO RANH GIỚI CỦA TÂM
Giới hạn của kiến thức khoa học
Thế giới vật chất: Việc làm không hoàn tất của khoa học
Đạo đức: Một chân lý chờ đợi sự xác minh
'Cái gì chân lý', 'Cái gì phải ra sao'
Chân lý thật sẽ là nền tảng của khoa học
Chấp nhận giác quan thứ sáu
VI. MỘT VÀI ĐỀ NGHỊ ĐỂ CẢI TIẾN
Quá ít
Quá trễ
Vấn đề phát triển chỉ có thể đề cập tới khi thực sự hiểu được các giá trị
Khuyến khích kỹ thuật xây dựng
TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

LỜI NÓI ĐẦU

Bài thuyết trình trong Ngày Khoa Học Quốc Gia tại Đại Học Chiang Mai, Bắc Thái Lan, ngày 16 Tháng 8 Năm 1991 với nhan đề: "Phật Giáo, Nền Tảng của Khoa Học"

Hôm nay, Phân Khoa Khoa Học của Đại Học Chiang Mai, có nhã ý cho tôi vinh dự đến đây thuyết trình với quý vị trong dịp quan trọng này. Tôi được biết đa số quý vị rất ngạc nhiên thấy một tu sĩ Phật Giáo lại được mời đến để nói chuyện về khoa học. Sự việc có vẻ hình như bất thường, tôi cảm thấy phản ứng này không có lý do xác đáng. Chúng ta hãy cùng nhau đả thông tư tưỏng trước khi vào phần thuyết trình, hầu tâm trí chúng ta được vô tư.

Quan niệm một nhà sư là chuyên gia tôn giáo nói chuyện về vấn đề khoa học có thể do kết quả của khuynh hướng hiện đại. Thời đại của chúng ta là một thời đại của các chuyên gia. Chúng ta có khuynh hướng sắp xếp các chuyên viên nào là nhà tôn giáo, khoa học gia, kinh tế gia, chính trị gia vân vân.., sắp mỗi người vào riêng lãnh vực chuyên môn riêng của mình. Nhưng chúng tôi cảm thấy chúng tôi không phải là một chuyên gia tôn giáo, và chúng tôi không muốn người ta gọi chúng tôi như vậy. Đơn giản, chúng tôi chỉ là nhà sư.

Những nhà sư và những chuyên viên tôn giáo không phải là một. Muốn trở thành một nhà sư Phật Giáo là muốn sống một cuộc sống tu hành. Nói cho hợp với xu hướng ngày nay, chúng ta có thể nói đó là cách sống "chuyên biệt". Mặt khác, tôn giáo là một ngành chuyên về kiến thức. Một người có một lối sống đặc biệt, có một vai trò xác định bởi những kỷ luật của lối sống ấy, một lối sống, trong trường hợp này, được hoạch định để người đó sống hết khả năng, về cả hai mặt cá nhânxã hội. Các chuyên khoa ra đời là do việc phân chia kiến thức thành các loại. Trong việc phân chia này, không có sự lưu tâm đến lối sống, mà chỉ có mối quan tâm học thật đơn thuần. Duới ánh sáng ấy, coi nhà sư là một chuyên gia tôn giáo là không đúng.

Cho nên việc tổ chức thuyết trình này, "Phật Giáo, Nền Tảng của Khoa Học", không thể được coi như cuộc gặp gỡ của hai môn học thuật, nếu không, quý vị sẽ có cảm tưởng sắp sửa mục kích một cuộc đối chất kỳ dị khác thuờng.

 

Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta. Các khoa học gia là những chuyên viên của ngành kiến thức này, những người liên quan mật thiết nhất đến khoa học, và bây giờ các khoa học gia sẽ cho người ngoài cơ hội nhìn vào khoa học, nhận xét về khoa học. Hiểu như vậy, chúng tôi nghĩ rằng quý vị sẽ dễ dàng theo d‚i bài thuyết trình của chúng tôi.

Với tư tưởng trên, quí vị sẽ thấy, không nhất thiết diễn giả, một người không liên quan đến khoa học, phải có kiến thức rộng sâu về đề tài khoa học. Thuyết trình viên có thể biết một số vấn đề, có thể ngu dốt với một số vấn đề, có thể nói đúng hay sai, nhưng dầu sao cũng có một điều gì đạt được trong bài thuyết trình, dù chỉ là ý kiến của người bên ngoài nhìn các khoa học gia như thế nào.

Bây giờ ta thử xem, được lợi ích gì từ sự hiểu biết này? Thực tình mà nói, chúng ta không thể sống hay hành động đơn phương một mình được. Chúng ta chịu ảnh hưởng lẫn nhau về lối suy nghĩ và những biến cố chung quanh. Chúng ta có thể làm việc chặt chẽ với người khác và các ngành khác của kiến thức khác. Nếu tác động qua lại này thành công, chất lượng công việc sẽ gia tăng. Nếu tác động hỗ tương không thành công, hoạt động cũng như lãnh vực kiến thức của chúng ta sẽ không kết quả vì bị ảnh hưởng. Vì thế, mời một người ngoài nhìn vào và nhận xét về khoa học là rất hữu ích, giúp cho quý vị có tầm nhìn xa trông rộng, tác động qua lại với thế giới bên ngoài và các ngành học thuyết khác, giúp lợi ích thêm cho công việc của quý bạn. Kết quả sẽ là quan điểm khoáng đạt, linh hoạt hơn.

Cho nên chúng ta đều đồng ý nên có bài thuyết trình về khoa học dưới con mắt của một người bên ngoài, một nhà sư Phật giáo trong trường hợp này. Nhà sư Phật Giáo này có nhãn quan về khoa học như thế nào, vấn đề sẽ được trình bày sáng tỏ trong phần tới.

Một điểm phụ, chúng tôi muốn bầy tỏ cho rõ ràng trước khi vào phần chính của bài nói, có liên quan đến đầu đề bài thuyết trìnhthuyết trình viên thạm chí còn tuyên bố ngay: Phật Giáo là nền tảng của khoa học! Tôi không nêu lý do tại sao lại đặt đầu đề này ngay bây giờ, nhưng sẽ nói đầu đề này được lấy cảm hứng từ lời tuyên bố của một khoa học gia, một nhà khoa học vĩ đại. ông không nói đúng hẳn những lời như trên, nhưng tôi không nghĩ là đã xuyên tạc lời ông. Dù sao đi nữa tôi cũng không đặt quá nhiều tầm quan trọng vào vấn đề này vì lát nữa tôi sẽ trình bày sau. Tôi không nghĩ rằng quý vị lại tự mình thắc mắc về Phật Giáo có phải là nền tảng của khoa học hay không, hoặc có lợi gì sau buổi tọa đàm hôm nay, đó là chuyện mà quí vị tự do quyết định theo ý của mình.

Thêm vào, tôi muốn làm sáng tỏ ý nghĩa của hai chữ mà tôi sử dụng trong suốt bài thuyết trình, đó là ' Phật Giáo' và 'Khoa Học'.

Phật Giáo trong phạm vi này không có nghĩa chỉ là hình thức thể chế của Phật Giáo, mà là giáo lý chủ yếu, một đặc tínhtính cách trừu tượng.

Về khoa học, có thể chúng tavấn đề khó khăn. Một số các khoa học gia có thể cảm thấy trong phạm vi này, chỉ có Khoa Học Thuần Túy mới được cứu xét, không phải Khoa Học Ứng Dụng hay kỹ thuật.Nhưng với một người bình thuờng, khi nghĩ tới chữ 'khoa học'', thường nghĩ đến ý nghĩa tổng quát chứ không nghĩ đến nghĩa hẹp của nó. Chính tôi cũng là một con người bình thuờng, một chúng sanh, không khác biệt gì những người khác, một người bên ngoài. Cho nên, chúng tôi nói đến khoa học theo lối thông thường, không phân biệt Khoa Học Ứng Dụng hoặc Thuần Túy. Lúc nào phân biệt tôi sẽ nêu rõ khi đề cập đến.

... Về cơ bản, khoa học với thiên nhiên là một, nhưng ngày nay đa số mọi người cảm thấy cái mà ta gọi là khoa học không phải là thiên nhiên...

n

 
 


#73
tritanngo99

tritanngo99

    Đại úy

  • Điều hành viên THPT
  • 1644 Bài viết

PHẬT GIÁO NỀN TẢNG CỦA KHOA HỌC
Hòa thượng Prayudh Payutto
Tỳ kheo Thích Tâm Quang dịch

 



I. KHOA HỌC VÀ KỸ THUẬT

MỘT TIẾN BỘ ĐÁNG NGỜ

Đầu tiên, chúng ta phải công nhận vô số điều tốt lành tặng cho chúng ta bởi khoa học. Không một ai không công nhận giá trị to lớn của khoa học hiện có. Để có thể đến thuyết trình, chúng tôi đi từ Bangkok đến Chiang Mai mà chỉ mất có một giờ. Quay về thời đại của Hoàng Đế Rama, muốn đi như vậy, chúng tôi phải mất ba tháng mới đến được, và do đó có lẽ chúng tôi không đến nếu ở vào thời đại ấy. Chúng ta phải công nhận sự đóng góp của khoa học vào phương tiện di chuyển như máy bay, xe lửa hay xe hơi.

Nhìn vào hệ thống truyền thông hiện đại, chúng ta thấy nào vô tuyến truyền thanh, điện thoại, điện thư, truyền hình, băng hình, vệ tinh vân vân..., tất cả những thứ trên đều do sự tiến bộ của khoa học và kỹ thuật.

Những lãnh vực phát triển khác như y tế trên thế giới, rất nhiều các bệnh truyền nhiễm đã được thực sự ngăn ngừa. Bệnh dịch tả hầu như không xuất hiện, tại Á Châu, bệnh này không còn thấy nữa. Bệnh dịch hạch không còn thấy xẩy ra. Bệnh đậu mùa tại khắp nơi cũng được tiêu diệt. Ngày nay chúng ta không còn sợ hãi các bệnh truyền nhiễm này. Thời cổ, một người bị chết dễ dàng khi ruột thừa bị nhiễm trùng, nhưng ngày nay mổ ruột dư chỉ là một cuộc giải phẫu tầm thường. Phẫu thuật nào cũng thành dễ dàng hơn Ngay cả đến giải phẫu óc cũng không thành vấn đề. Những dụng cụ tinh vi được sử dụng để khám bệnh và chẩn bệnh ngày càng sẵn có. Máy Quang Tuyến X được thay thế bằng các máy quang tuyến điện tử, máy siêu âm và cả máy MRI. Chẳng bao lâu nữa sẽ không cần đến bác sĩ để khám bệnh, các máy móc sẽ thay thế họ. Những thí dụ điển hình trên đây cho thấy giá trị cực kỳ to lớn của tiến bộ kỹ thuật.

Rồi thì, chúng ta có điện và hằng hà sa số các máy móc để tiết giảm sức lao động. Ấn loát và phát hành hết sứctiến bộ. Những máy móc như đồng hồ, truớc đây có vẻ phức tạp nhưng nay trở nên tầm thường. Những đồng hồ xưa, quá to, nặng nề rất khó sử dụng. Bạn phải hàng ngày điều chỉnh và lên dây cót. Ngày nay chúng ta có đồng hồ quartz (thạch anh). Đồng hồ ngày nay đơn giản, rẻ và chính xác hơn xưa. Những dụng cụ để viết ngày nay rất nhiều và rẻ, 20 năm về trước chúng ta phải gìn giữ cây bút viết, nhưng nay, bút viết rất rẻ, chúng ta chỉ việc quẳng đi khi dùng hết mực. Mọi thứ đều đầy rẫy và tiện lợi. Ngày nay, con người đi vào không gian, phát triển máy điện toán, đó là mặt lợi của kỹ thuật.

Trong lãnh vực sinh học, chúng ta được chứng kiến sự phát triển 'gien' di truyền, nó có thể tạo ra các loài động thực vật mới hoặc các biến thái đặc biệt. Không thể ghi hết tất cả những tiến bộ kỹ thuật chúng ta có ngày nay.

Nhưng mặt khác, khi nhìn vào các tiến bộ đó, chúng ta thấy khoa học, và đặc biệt là kỹ thuật, cũng tạo ra nhiều khó khăn cho nhân loại. Ngày nay, tại những nước phát triển, người ta e sợ là loài người tức toàn thể thế giới có thể bị hủy diệt trong bàn tay của tiến bộ kỹ thuật. Sự hủy diệt có thể trong khoảnh khắc, chỉ cần bấm nút, ấy là nói vậy, hoặc một loại hủy diệt kéo dài do sự phá hoại môi trường gia tăng, một vấn đề hết sức nguy ngập đúng vào lúc này.

Ngay trong phạm vi thực tại đời sống hàng ngày, chúng ta cũng bị đe dọa bởi nguy cơ đó. Không thể chắc chắn được thức ăn của chúng ta có bị nhiễm các hóa chất hay không chẳng hạn cây cối, súc vật, thực phẩm cung ứng cho chúng ta, được chăm sóc bằng các chất tăng trưởng cho mau lớn. Heo được nuôi bằng các chất kích thích đặc biệt để thịt chúng trở thành đỏ tươi. Các chất độc đôi khi được dùng để giữ cho thực phẩm lâu hư, tăng mùi vị, hay giữ được mầu sắc, đó là chưa kể đến sự lạm dụng các loại thuốc trừ sâu (x). Chính một số những người bán những thực phẩm ấy cũng không dám ăn!

(x) Tất cả những việc làm này đã xẩy ra tại Thái Lan trong những năm vừa qua.

Sự rời bỏ khoa học và thiên nhiên

Trên phương diện đó, khoa học hình như đã xâm nhập vào thế giới thiên nhiên. Chúng ta nhận thức khoa học và thiên nhiên là hai thực thể riêng biệt, mặc dù khoa học nghiên cứu thiên nhiên và bao giờ cũng tồn tại kề cận với thiên nhiên. Về cơ bản khoa học với thiên nhiên là một, nhưng ngày nay đa số cảm thấy cái mà ta gọi là khoa học không phải là thiên nhiên. Sản phẩm của kỹ thuật tạo ra thường được gọi là 'nhân tạo': chúng ta có 'phổi nhân tạo', 'thận nhân tạo' vân vân...Khoa học dường như là kẻ xâm phạm thiên nhiên.

'Sự thao túng thiên nhiên' trên ngụ ý thế giới của thiên nhiên sau này có thể trở thành thế giới của khoa học. Khi khoa học đã hoàn toàn xâm chiếm thế giới thiên nhiên, chúng ta chỉ còn lại một thế giới khoa học hay 'nhân tạo'. Con ngườimột sinh vật tự nhiên, sống trong thế giới thiên nhiên., nhưng trong tuơng lai chúng ta sẽ thấy chúng ta sống trong một thế giới nhân tạo. Nếu chúng ta muốn con người sống hòa hợp với thế giới nhân tạo, có thể cần thiết là phải làm cho xác thân của chúng ta thích ứng, trở thành một con người nhân tạo để sống trong thế giới nhân tạo. Hiện nay, tình hình chưa phải là như vậy, chúng ta không hòa hợp được với môi sinh của chúng ta. Khi không còn tiếp xúc với thiên nhiên, chúng ta nhất định sẽ gặp khó khăn.

Quan niệm như vậy, sự tiến bộ của khoa học hình như không mấy hòa hợp. Khoa học, trên đà cố gắng 'cải thiện' môi trường của loài người, dường như biến nó thành thế giới khoa học. Nhiều phát minh mới, khích lệ đã được thấy nhưng khoa học không điều chỉnh được đời sống con người cho thích ứng. Tiến bộ của khoa học đã biến đổi môi trường vật chất chung quanh thành thế giới khoa học, hay thế giới nhân tạo.

Với con người có cả xác thân và tâm trí, phần thích ứng với thế giới bên ngoài là xác thân. Nhưng cái mà chúng ta khám phá ra, không phải là xác thân mà là tâm trí đã thích ứng. Khoa học biến tâm trí con người thành tâm trí nhân tạo: yêu thích khoa học, mong muốn các vật nhân tạo, tâm trí xa lìa thiên nhiên. Nơi đây có sự mâu thuẫn cả bên trong lẫn bên ngoài. Bên trong, tâm trí và xác thân xung đột lẫn nhau, trong khi bên ngoài cái thân sinh vật, vật chất xung đột với thế giới khoa học. Trong khi còn là một cơ thể tự nhiên thuần túy, cần phải có không khí trong lành, nước sạch và đồ ăn hợp vệ sinh, thân thể gặp khó khăn với những vấn đề trên. Vấn đề không khí, nước và an toàn vệ sinh thực phẩm đang trở nên tồi tệ, bị biến đổi bởi khoa học.

Vào thời điểm này, có lẽ nhân loại cần quyết định một con đường để con người thiên nhiên sống trong một thế giới thiên nhiên, hay cố gắng tạo ra 'con người khoa học' để sống trong một thế giới khoa học.

Hai loại kỹ thuật

Việc áp dụng khoa học đã ảnh hưởng, và thay đổi thế giới thiên nhiên, thay đổi thành cái gọi là thế giới nhân tạo, ta gọi là 'kỹ thuật'. Tuy nhiên, để tồn tại, kỹ thuật phải dựa vào kiến thức do khoa học giành được. Kỹ thuật là công cụ, là nguồn khai thác mà nhân loại dùng để lôi kéo thiên nhiên vào sự mưu cầu tiện nghi, nhưng đồng thời nhân loại cũng bị đe dọa bởi các nguy cơ liên quan đến kỹ thuật ấy. Kỹ thuật vừa là một dụng cụ để tìm kiếm hạnh phúc, vừa là chất xúc tác gây nguy hiểm.

Bây giờ để trả lời tất cả các điều trên, các khoa học gia có thể phản ứng lại nói rằng thế giới 'Khoa Học' có nghĩa là Khoa Học Thuần Túy. Khoa Học Thuần Túy khám phá, nói lên sự thật, và chỉ nghiên cứu kiến thức. Bất cứ ai cũng có thể sử dụng kiến thức ấy vào công việc của mình, không liên quan gì đến khoa học. Khoa Học Thuần Túy có chiều hướng rũ bỏ trách nhiệm này.

Khoa học có khuynh hướng kết tội kỹ thuật sử dụng kiến thức đạt được do khoa học, vì mục đích riêng của mình, nhưng thực ra nó không sử dụng kiến thức khoa học chỉ riêng cho mục đích của mình. Kỹ thuật ban đầu nhằm đem lợi ích cho nhân loại, nhưng ngày nay chúng ta có hai loại kỹ thuật. Một loại kỹ thuật vị nhân sinh (để phục vụ nhân quần xã hội), một loại kỹ thuật vụ lợi(vì quyền lợi riêng tư). Cái mà chúng ta cần là kỹ thuật vị nhân sinh, nhưng những khó khăn mà chúng ta gặp phải ngày nay là do kỹ thuật hiện đại thuộc loại kỹ thuật vụ lợi.

Nếu chúng ta biết hạn chế trong việc tạo ra những cái có lợi trong công nghệ thì hậu quả kéo theo là nhỏ và xa xôi. Nhưng bất cứ lúc nào kỹ thuật được sử dụng để tìm kiếm mối lợi thì khó khăn xuất hiện như chúng ta mục kích ngày nay. Cho nên phải phân biệt rõ ràng kỹ thuật tạo lợi ích để phục vụ tha nhân với kỹ thuật dùng để tìm lợi íchquyền lợi riêng tư..

Vị thế của đạo đức

Đây là vấn đề sử dụng, sẽ là cách sử dụng sai lầm kiến thức khoa học, kỹ thuật để tìm mối lợi, thậm chí phá hoại trái đất. Những vấn đề do kỹ thuật gây ra hoàn toàn là do cách sử dụng của con người. Vì khó khăn gây nên do nơi con người, nên vấn đề đạo đức, hay luân lý được nêu lên.

Những khó khăn này có thể giải quyết trực tiếp dễ dàng, dứt khoát chỉ khi người ta có luân lý. Chỉ như vậy, khoa học và kỹ thuật mới được dùng vào mục đích xây dựng. Tuy vậy, vẫn có thể có những hậu quả tai hại, gây nên do sự thiếu thận trọng hay thiếu hiểu biết, thì dù sao đó cũng là cách ngăn ngừasửa đổihiệu quả nhất.

Nhân loại trông chờ khoa học và kỹ thuật mang lợi ích cho xã hội loài người, nhưng khoa học và kỹ thuật không bảo đảm đem lại điều mà nhân loại mong muốn. Những điều này hoàn toàn trong tay người sử dụng, gây tai hại hay tạo lợi ích, tùy thuộc cách thức sử dụng.

Nếu chúng ta không lưu tâm đến đạo đức hay luân lý, thay vì tạo lợi ích, khoa học và kỹ thuật hầu hết chỉ gây khó khăn, căng thẳng do thả lỏng sản xuất và tiêu thụ hàng hóa chỉ nhằm vào thỏa mãn giác quan, nuôi dưỡng dục vọngtham lam (tham dục); dẫn đến leo thang dùng sức mạnh để phá hoại (sân hận), làm gia tăng các phương tiện và cường độ của các ảnh hưởng đó khiến người dân thiếu sáng suốt, thiếu suy nghĩ (si mê). Như vậy, kỹ thuật làm nhơ nhuốc phẩm chất đời sống, ô uế môi sinh. Chỉ đạo đức đích thực mới có thể giảm bớt các ảnh hưởng phá hoại này.

Không có đạo đức, tiến bộ kỹ thuật, dù là loại lợi ích, vẫn có khuynh hướng gia tăng đưa đến phá hoại. Khoa học và kỹ thuật càng tiến bộ bao nhiêu, thì nhân loại lại càng bị đe dọa mạnh bấy nhiêu. Khoa học và kỹ thuật càng phát triển, thì đạo đức càng cần thiết, sự ổn định và hạnh phúc của nhân loại càng tùy thuộc vào điều đó.

Bất luận ra sao, đề tài về đạo đức, tuy là tầm thường, chân thật nhưng hầu như không được thời đại tiền tiến này lưu ý tới. Đa số dân chúng muốn sống yên ổn không có vấn đề gì, nhưng lại không muốn giải quyết các vấn đề đó. Chừng nào mà họ không muốn giải quyết, hay lưu tâm đến đạo đức, họ phải chuẩn bị chịu đựng nhiều khó khăn trở ngại.

Khoa học và kỹ thuật không thể rời nhau

Khoa học và kỹ thuật lúc nào cũng hỗ trợ lẫn nhau. Không phải chỉ có khoa học nuôi dưỡng kỹ thuật lớn mạnh - kỹ thuật cũng là một yếu tố quyết định trong việc phát triển khoa học. Cái gì đã khiến khoa học tiến bộ đến mức độ bây giờ? Phương pháp khoa học. Phần chủ yếu của phương pháp khoa học là quan sát và thử nghiệm. Hình thức quan sát và thử nghiệm sớm nhất được thực hiện thông qua năm giác quan - mắt, tai, mũi, lưỡi và thân, đặc biệt là mắt để nhìn, tai để nghe và tay để sờ mó.

Tuy nhiên giác quan con người rất hữu hạn. Với mắt thường, chúng ta chỉ có thể nhìn thấy một số các vì sao và một phần giới hạn của vũ trụ. Do kỹ thuật phát triển, viễn vọng kính được sáng chế. Việc sáng chế viễn vọng kính giúp cho khoa học đạt được một Bước Nhẩy Vọt. Những vật li ti không thể nhìn bằng mắt thường, nay có thể thấy do sự sáng chế kính hiển vi. Khoa học đạt được những bước tiến. Như ta đã thấy, Khoa Học Thuần Túy tùy thuộc rất nhiều vào kỹ thuật để tiến bộ.

R‚ ràng khoa học và kỹ thuật ảnh hưởng lẫn nhau. Dụng cụ để nghiên cứu khoa học là sản phẩm của kỹ thuật. Do đó, khoa học và kỹ thuật chẳng bao giờ rời nhau, luôn đồng hành trên con đường phát triển. Ngày nay, khoa khoa học gia nhắm vào máy điện toán, dụng cụ cho tương lai, để tìm kiếm sự thật. Máy điện toán có thể thu thập và kiểm tra rất nhiều thông tin, nhiều hơn đầu óc của một người bình thường. Trong tương lai, máy điện toán không thể thiếu được để thử nghiệm các giả thiếtcông thức của các định lý.

Nói chung, lợi ích cho quảng đại quần chúng tạo bởi khoa học được thực hiện qua kỹ thuật. Tuy nhiên, nhân loại phải biết chọn lọc kỹ thuật vị nhân sinh để phục vụ nhân quần xã hội hay kỹ thuật vụ lợi vì quyền lợi riêng tư..

Tiến đến mức giới hạn, không tìm được câu trả lời

Ngày nay, tiến bộ của khoa học rộng lớn đến mức dường như tiếp cận giới hạn của vũ trụ vật chất. Khoa học đã giới hạn sự nghiên cứu về thế giới vật chất, nhưng khi tiến đến mức giới hạn đó, khoa học quay về với thế giới tâm linh. Đúng là có một số khoa học gia đã chú ý đến những huyền bí của tâm trí. Tâm trí ra sao? Ý thức là gì? Nó có phát sinh ra từ nguồn vật chất không? Có phải máy vi tính biết suy nghĩ chăng? Phát triển Trí Năng Nhân Tạo sẽ dẫn đến các máy vi tính xâm nhập tâm trí? Đây là câu hỏi mà một số khoa học gia đang ức đoán. Điều này cho thấy khoa học bắt đ?u xâm phạm vào biên giới của tâm trí.

Nhìn vào những phương pháp quan sát và xác minh hiện đại, chúng ta thấy những phương pháp ấy vượt quá giới hạn của năm giác quan. Trước đây, năm giác quan tự chúng có đủ dụng cụ để quan sát - mắt trần, tai và tay. Sau này chúng ta dựa vào khả năng có hạn của chúng. Bất cứ lúc nào giác quan không đủ khả năng tiếp nhận, thì chúng ta tìm đến những dụng cụ kỹ thuật.

Nhưng nay dù đã có những dụng cụ, dường như chúng ta đã tới mức giới hạn. Ở giai đoạn này các vụ nghiên cứu khoa học dùng ký hiệu toán học. Ngôn ngữ toán đưọc dùng để truyền đạt ý nghĩa của khái niệm khoa học, vũ trụ được rút gọn thành một thế giới các ký hiệu.

 

Khi quan sát, thí nghiệm và phân tách nhập đi vào thế giới tâm linh, khoa học giữ nguyên thái độ căn bảnphương pháp thử nghiệm, vì vậy trở thành đi phỏng đoán về niềm tin. Có rất nhiều niềm tin, định kiến, trong loại quan sát này. Khi khoa học tiến đến biên giới của tâm, còn phải xem liệu khoa học thực ra có thể đi sâu vào tâm hay không, và bằng cách nào.

Gía trị và động cơ

Chúng ta hãy quay trở lại, nhìn vào lúc mới khai sanh khoa học và khoa học đã phát triển ra sao cho đến tình trạng hiện nay.

Dù Khoa Học Thuần Túy muốn tách rời Khoa Học Ứng Dụng và Kỹ Thuật, nhưng vẫn phải chia sẻ trách nhiệm về những kết quả tai hại. Thật ra, trong khoảng trăm năm vừa qua, Khoa Học Thuần Túy không hẳn thuần túy. Đó là vì có những tiêu chuẩn đạo đức (hay phương châm xử thế) ẩn chứa trong Khoa Học Thuần Túy, mà nhóm người làm công tác khoa học không ý thức được, và vì không ý thức về tiêu chuẩn đạo đức, Khoa Học vô tình trở thành đối tượng bị ảnh hưởng.

Nguồn gốc của khoa học là gì? Tất cả khoa học, dù là khoa tự nhiên học hay xã hội học đều dựa vào những tiêu chuẩn đạo đức. Chúng ta hãy lấy kinh tế làm thí dụ. Khởi nguyên của kinh tế là gì? Nguồn gốc của nó là gì? Nhu cầu là nguồn gốc của kinh tế. Nhu cầu là gì? Nhu cầu có thể quan sát thấy bằng một trong năm giác quan không? Không, không thể được. Đó là một đặc tính của tâm trí, một giá trị. Một môn học được biết đ?n như khoa học, cho rằng nó không dính líu gì đến giá trị, nhưng thực ra nó chẳng bao giờ không dính dáng đến giá trị.

Bây giờ, nguồn gốc của khoa học tự nhiên ở đâu? Nguồn gốc, hay động cơ của khoa học là lòng ham thích biết sự thật của thiên nhiên, hay sự thực. Câu trả lời trên đây được chấp nhận bởi đa số khoa học gia, và thực tế câu trả lời này cũng chính là của một khoa học gia. Lòng ham thích biết sự thực của thiên nhiên cùng với niềm tin thiên nhiên có những qui luật không thay đổi, hoạt động theo nguyên nhân và kết quả, là hai tiền đề căn bản mà khoa học căn cứ vào để truy nguyên bí mật của thiên nhiên.

Nền tảng của khoa học ở ngay trong tâm trí con người, ở sự ham thích muốn biết, và ở niềm tin. Không có hai đức tính ấy, khoa học không thể nẩy nở và phát triển.

Động cơ thúc đẩy việc phát triển lúc ban đầu của khoa học, vẫn còn tồn tại ở một mức đô nào đó, là sự ham thích biết sự thật của thiên nhiên. Đó là loại ham thích tương đối trong sạch. Sau này, sự ham thích muốn biết đó, bị Giáo Hội Cơ Đốc đàn áp ở đầu thời kỳ Trung Cổ. Giáo Hội Cơ Đốc thiết lập tòa án để thẩm xét niềm tin của dân chúng gọi là Tòa Án Dị Giáo. Những ai bày tỏ lời nghi ngờ ở Kinh Thánh đều bị xử trước tòa án này, và nếu phát hiện có tội sẽ bị trừng phạt. Galileo là một trong những người bị xử trước tòa án này. Galileo tuyên bố trái đất quay quanh mặt trời, suýt bị tử hình vì đầu độc mọi người bằng học thuyết của mình. Đến giây phút cuối cùng, ông nhận tội và được tha; ông không bị chết nhưng có rất nhiều người bị thiêu sống trên cọc.

Vào thời gian đó, việc tìm kiếm sự thật bị công khai cấm chỉ. Nhưng càng ngăn cấm mạnh mẽ bao nhiêu thì phản ứng lại mạnh mẽ bấy nhiêu. Cho nên, chuyện đã xẩy ra là đàn áp và cấm đoán trong Thời Đại Tối Tăm (Trung Cổ) đã tác động làm tăng thêm lòng ham muốn biết sự thật - Chân Lý Thiên Nhiên, và sự ham thích đó thấm nhuần vào tư tưởng văn hóa Tây Phương cho đến ngày nay.

Sự tiến triển vào thời đó tương đối là do lòng ham thích muốn tìm biết thiên nhiên. Dù vậy sự ham muốn ấy vẫn còn được coi là ham muốn hiểu biết tương đối trong sạch.Tuy nhiên, khoa học chúng ta có ngày nay không còn được như thế nữa. Ngày nay dù đã phát triển Khoa Học vẫn chịu ảnh hưởng của hai hệ thống giá trị lớn, tức thành kiến đã thấm vào sự tiến triển của khoa học và điều khi?n phương hướng nghiên cứu, học hỏi.

Hai giá trị trên đây là gì? Chúng là:

1) Cuộc vận động chinh phục thiên nhiên, hay quan niệm rằng thịnh vượng của nhân loại xoay quanh việc chinh phục thiên nhiên.

Lối suy nghĩ này bắt nguồn từ niềm tin Cơ ĐốcThượng Đế tạo ra loài người theo ý của mình, để kiểm soát toàn thể thế giới và có quyền thống trị thiên nhiên. Thượng Đế tạo thiên nhiên, và vạn vật cho con người sử dụng. Nhân loại là người lãnh đạo, trung tâm của vũ trụ, vị chủ tể. Nhân loại khám phá những bí mật của thiên nhiên cốt để thao túng nó theo sở thích của mình. Thiên nhiên hiện hữu để cho con người sử dụng.

Một tài liệu Tây Phương viết ý kiến trên sẽ chịu trách nhiệm về sự tiến bộ của Khoa Học Tây Phương. Tài liệu nói vào thời cổ ở Đông Phương, đặc biệt Ấn Độ và Trung Hoa, khoa học tiến bộ hơn Tây Phương, nhưng rốt cuộc Tây Phương đã vượt qua Đông Phươngảnh hưởng của lý tưởng chinh phục thiên nhiên, và do đó dẫn đầu về khoa học hiện nay.

Cho nên, hệ thống giá trị đầu tiên là niềm tin cho rằng Con Người có quyền chinh phục thiên nhiênlý do khuyến khích và biện minh cho những hành động trên. Bây giờ chúng ta đi đến ảnh hưởng lớn thứ hai.

2) Tin rằng hạnh phúc lệ thuộc vào lượng của cải vật chất.

Lối suy nghĩ trên đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến việc mở mang công nghiệp tại Tây Phương. Khởi thủy, theo lịch sử Tây Phương, nền công nghiệp được tạo nên để đáp ứng vấn đề khan hiếm. Đời sống các quốc gia Tây Phương bị bao vây bởi sức mạnh thiên nhiên đối nghịch, mùa đông băng giá, không thể cầy cấy được. Dân chúng tại các nơi ấy có cuộc sống hết sức khó khăn. Họ không những phải chịu đựng thời tiết băng gía lạnh lẽo, mà còn chịu khổ vì nạn thiếu thực phẩm. Phải tranh đấu để sống còn, và do sự tranh đấu này, kỹ nghệ phát triển.

Bây giờ, cái gì trái với khan hiếm? Trái với khan hiếm là thừa thãi, sung túc. Người dân Tây Phương nghĩ rằng khi vấn đề khan hiếm đưọc giải quyết, họ sẽ hạnh phúc. Đó là động cơ thúc đẩy có cuộc Cách Mạng Công Nghiệp - sự nhận thức về khan hiếm, sự ham muốn cung cấp đầy đủ, trở thành căn bản bởi quan niệm vật chất phong phúđiều kiện tiên quyết để có hạnh phúc.

Cách suy nghĩ trên triển khai thành chủ nghĩa vật chất, rồi thành chủ nghĩa tiêu thụhiển nhiên trực tiếp là sự góp phần to lớn của các nhà tư bản công nghiệp chịu ảnh hưởng suy nghĩ trên. Ý tưởng ban đầu ấy bây giờ trở thành niềm tincon người thống trị thiên nhiên. Đi đôi với quan niệm hạnh phúc tùy thuộc vào sự dồi dào của cải vật chất, chúng ta tin tưởngthiên nhiên phải được chinh phục để sản xuất hàng hóa vật chất phục vụ sở thích con người. Hai lối suy nghĩ trên đây quan hệ mật thiết với nhau, và hỗ trợ lẫn nhau.

Dường như lòng mong muốn đơn thuần về kiến thức đã bị tha hóa dưới ảnh hưởng của sự ham thích chinh phục thiên nhiên mà là sản xuất hàng hóa vật chất cho phong phú, nghĩa là duy vật chủ nghĩa. Khi hai giá trị này đi vào một khung cảnh, lòng mong muốn thuần túytrong sạch về kiến thức đã trở thành dụng cụ để thỏa mãn mục tiêu của giá trị thứ hai, đem đến tương quan lợi dụng thiên nhiên.

Cứ cho rằng chinh phục thiên nhiên nhân loại có thể tạo hằng hà sa số hàng hóa vật chất để phục vụ sở thích con người, đưa đến hạnh phúc lý tưởng việc nghiên cứu các phương pháp để thực hiện ý tưởng trên là điều tất yếu. Cho nên có rất nhiều tiến bộ được thực hiện trong thời gian vừa qua, nhất là sau cuộc Cách Mạng Công Nghiệp. Cũng có người nói khoa học phát triển mới đây trong Thời Đại Công Nghiệp, là phục vụ cho công nghiệp.

Chắc chúng ta có thể đồng ý rằng sự thịnh vượng trong thời gian mới đây, là sự thịnh vượng của công nghiệp. Tuy nhiên, trong khi người Thái đem hết tâm lực vào Thời Đại Công Nghiệp thì Phương Tây lại phát triển mau hơn nữa. Thái Lan thích được gọi là Quốc Gia Công Nghiệp Mới, nhưng người Phương Tây đã vượt qua giai đoạn này và tiến tới Thời Đại Hậu Công Nghiệp, đó là Thời Đại Thông Tin. Khoa học là yếu tố quan trọng trong tất cả hai trường hợp.Có thể nói là khoa học mở đường cho công nghiệp, nhưng Công Nghiệp lại nói " Khoa Học! Người phục vụ cho ta!"

Song song với sự phát triển công nghiệp, chúng ta cũng nhận thấy một hậu quả tai hại liên quan phát sanh, mà sự gia tăng đưa đến tình trạng nghiêm trọng chưa từng thấy. Giờ đây nguy cơ do sự phá hoại môi sinh đe dọa chúng ta đã quá rõ ràng.

Nguyên nhân của nó là hai ý tưởng: sự ham thích chinh phục thiên nhiênduy vật chủ nghĩa, hai ý tưởng trên đem nhân loại đến con đường thao túng, mà hậu quả là tàn phá thiên nhiên trên một qui mô tăng nhanh chưa từng thấy. Thêm vào đó, hai xung lực này là nguyên nhân tranh cấp trong lòng nhân loại, tranh chấp giữa cá nhân, để giành nhiều tiện nghi cho phần mình. Thậm chí có thể nói con người hiện đại đã phải trải qua những hậu quả tai hại của sự phát triển công nghiệp trong thế kỷ vừa qua vì ảnh hưởng của hai mục đích được cho là đúng này.

Đàng sau sự thịnh vượng...

Hai sự mặc nhận trên chưa phải là một bức tranh toàn vẹn. Còn có hai khuynh hướng lớn hỗ trợ cho chúng:

1) Chuyên Môn: Thời Đại Công Nghiệpthời đại chuyên môn. Các ngành học thuật đều được phân chia thành các lãnh vực chuyên môn. Mỗi ngành có khả năng rất thành thạo trong lãnh vực của mình, nhưng tổng quát, nhiều lãnh vực không thể hợp nhất được.

Mục đích ban đầu về việc chuyên môn hóa kiến thức là mong có nhiều kiến thức chi tiết hơn trong một lãnh vực, rồi tổng hợp tất cả những kiến thức ấy, nhưng các nhà chuyên môn đã bắt đầu lóa mắt bởi kiến thức của họ, dẫn đến loại chuyên môn lệch lạc, một quan niệm cực đoan. Trong lãnh vực khoa học, có những người nghĩ rằng khoa học đơn phương đủ để giải quyết các khó khăn của nhân loại, có thể trả lời mọi câu hỏi, khiến nó không chịu nhượng bộ để hợp tác với các lãnh vực kiến thức khác.

Loại quan niệm đó tạo ra sự tin tưởng rằng tôn giáođạo đức cũng là những lãnh vực kiến thức chuyên môn khác. Hệ thống giáo dục hiện đại coi đạo đức chỉ như một môn học lý thuyết. Khi nghĩ về đạo đức, họ nghĩ "Ồ, Tôn Giáo" rồi xếp lại trong ngăn tủ. Họ không quan tâm tới. Khi phải giải quyết các khó khăn trên thế giới, họ nói: "Ồ, lãnh vực của tôi có thể giải quyết được!" và không nghĩ là phải cố gắng hợp tác với các môn khác. Nếu quả thậtđủ khả năng giải quyết tất cả các khó khăn, họ cũng có thể giải quyết vấn đề đạo đức. Nhưng họ lại nói đạo đứcvấn đề phải giải quyết của tôn giáo hay là vấn đề của lãnh vực chuyên môn này kia. Việc này khiến chúng tôiquan điểm thứ hai xin được trình bày sau đây:

2) Tin rằng vấn đề đạo đức có thể giải quyết được mà không cần đến đạo đức. Những người ủng hộ ý kiến này tin rằng phát triển vật chất khi đã lên tới đỉnh cao, tất cả những vấn đề đạo đức tự nó không còn nữa. Theo quan điểm này, không cần thiết huấn luyện hay mở mang tinh thần con người. Đó là lý luận gần đây xuất hiện trong lãnh vực kinh tế. Một số kinh tế gia chủ trương kinh tế phồn thịnh, hàng hóa vật chất phong phú, sẽ không còn tranh chấp, và xã hội sẽ hòa thuận. Câu nói trên đơn giản cho thấy, vấn đề đạo đức hay luân lý, có thể giải quyết bằng phương tiện vật chất, không cần đến đạo đức.

Điều trên đây không hẳn là sai. Tình hình kinh tế có liên quan đến vấn đề đạo đức, nhưng sẽ là sai nếu ta chỉ đơn giản lướt qua vấn đề, tin tưởng rằng kinh tế phồn thịnh thì vấn đề đạo đức sẽ biến mất.

Có thể nói, nếu phần nào là khôi hài, lập luận trên chỉ đúng trong một khía cạnh vì lẽ không có đạo đức thì kinh tế làm sao có thể phồn thịnh được . Phải nói rằng nếu thực hiện tốt đạo đức (thí dụ như khích lệ chuyên cần, độ lượng, thận trọng và biết dùng của cải của mình để đem lợi ích cho xã hội), khó khăn kinh tế sẽ biến đi.

Câu nói kinh tế tốt, vấn đề đạo đức sẽ không có, chỉ đúng về một ý nghĩa nào đó khi vấn đề đạo đức được xử trí trước lúc kinh tế phồn thịnh. Tương tự, câu nói tất cả vấn dề đạo đức đều được giải quyết, kinh tế sẽ phồn thịnh, cũng chỉ đúng một phần, ấy là kinh tế phải đưọc đề cập đến trước khi vấn đề đạo đức được giải quyết.

Lời nói 'vấn đề đạo đức' có tầm rộng trong các tình huống như sức khỏe tinh thần, và mưu cầu hạnh phúc. Vì vậy, việc giải quyết vấn đề đạo đức qua phương tiện vật chất đòi hỏi sự phối hợp của tâm trạng, cảm nghĩ, chẳng hạn việc tổng hợp các loại an thần để chữa các bệnh căng thẳng tinh thần, lo lắng, suy nhượcphiền não.Nhưng sẽ là sai lầm nếu chỉ cố gắng giải quyết các vấn đề đạo đức qua những phương tiện trên. Loại điều trị như vậy chỉ có tính cách tạm thời. Nó chỉ làm cho vấn đề lắng dịu xuống nhưng không thể giải quyết được. Chúng ta sẽ trở lại điểm này ở phần sau.

Nhiều ngành học thuật muốn đưọc công nhận họ là khoa học, nhưng vấn đề chuyên môn tự nó gây ra sự hạn hẹp, tương phản và trở thành một trở ngại cho khoa học thực sự. Nhà chuyên môn không thể là nhà khoa học chân chính. Cả đến vật lý cũng không thể gọi là khoa học thực sự, vì lẽ nó thiếu tính chất toàn vẹn, sự thật mà nó chứng minh được chỉ là từng mảnh, sự thật chỉ là một phần nào thôi. Khi sự thật chỉ là một phần, một phần thì nó không phải là sự thật đích thật- chân lý. . Ch? biết một số sự việc thực tế thì bất kể suy luận nào cũng không phù hợp với sự thật hoàn toàn. Không khám phá được dòng nguyên nhânhiệu quả trong tính toàn vẹn của nó, thì chân lý vẫn còn nằm ngoài tầm với.

Hai thái độ hay niềm tin đó (nghĩa là chuyên môn và niềm tin là những vấn đề đạo đức có thể giải quyết bằng phương tiện vật chất) tràn ngập trong Thời Đại Công Nghiệp Hóa. Do hai lý do trên, sự khó khăn đã gia tăng.

Giờ đây hãy triển khai một cuộc điều tra. Có thể một số quý vị phân vân là tất cả những thứ này có liên quan đến tôn giáo không. Để trả lời, tôi xin được nói là từ điểm này, tôi bắt đầu đi vào lãnh vực tôn giáo. Trước đây, tôi có đề cập lướt qua lãnh vực tôn giáo, nhưng để có thể thấy chi tiết hơn, tôi muốn trở lạiđi vào đề tài tôn giáo. Chúng tôi đã nói về khoa học, nguồn gốc và sự phát triển của nó, bây giờ xin hãy nhìn vào nguồn gốc và sự phát triển tôn giáo để cố gắng tìm một đường lối dung hòa cho cả hai.



#74
tritanngo99

tritanngo99

    Đại úy

  • Điều hành viên THPT
  • 1644 Bài viết

PHẬT GIÁO NỀN TẢNG CỦA KHOA HỌC
Hòa thượng Prayudh Payutto
Tỳ kheo Thích Tâm Quang dịch

 


II. TÔN GIÁO VÀ KHOA HỌC

Từ cùng lúc chung khởi đến lúc chia rẽ

TÔN GIÁO BẮT NGUỒN ra sao? Chúng ta đều biết tôn giáo bắt nguồn từ sự sợ hãi nguy hiểm, nhất là những nguy cơ thiên nhiên, như sấm sét, lụt lội, động đất, núi lửa, bão tố vân vân .... Những nguy hiểm trên đã đe dọa con người qua nhiều thời đại.

? thời cổ, người ta không hiểu sự vận hành cùng các hiện tượng thiên nhiên. Khiếp sợ do sự đe dọa của sức mạnh thiên nhiên, nhân loại bắt đầu tìm cách đối phó. Sự tìm kiếm trên nhanh chóng thúc đẩy con người quan tâm đến thiên nhiên ở chung quanh mình và khao khát tìm cách đối phó. Đây là điểm trên rất quan trọng, vì là nguồn gốc chung cho cả tôn giáo lẫn khoa học. Tôn giáo phát sanh từ cái ham muốn thoát khỏi nguy hiểm, trong khi khoa học, như chúng ta đã nói ở trên, khoa học phát sanh từ lòng ham muốn muốn biết sự thật của thiên nhiên.

Trong trường hợp tôn giáo, lòng ham muốn được an toàn là động cơ chính.Sụ đe dọa tồn tại trong thiên nhiên nên nhân loại hướng về với thiên nhiên để có câu trả lời thiết thực . Đồng thời, cảm giác kinh ngạc về những kỳ diệu của thiên nhiên làm nẩy sinh lòng ham muốn biết sự thật của thiên nhiên. Không phải là do tò mò vu vơcon người bắt buộc phải tìm hiểu thiên nhiên, cốt để xử trí các nguy cơ do thiên nhiên đe dọa.

Từ cái khao khát muốn thoát khỏi nguy hiểm, tạo ra do sợ hãi, nẩy sinh lòng ham muốn biết sự thật của thiên nhiên. Tới điểm này, chúng ta có thể thấy nguồn gốc chung của khoa học và tôn giáo: tôn giáo nẩy sinh trước, vì sợ nguy hiểm, trong khi lòng ham muốn biết sự thật thiên nhiên khoa học nẩy sinh tiếp theo sau.

Đến chừng mựcchúng ta biết, những hình thức nghiên cứu khoa học sớm nhất thật ra nẩy sanh từ tôn giáo. Những nhà nghiên cứu kiến thức khoa học tại Ai Cập, Mesopotamia, và các văn hóa cổ khác đều từ giới tôn giáo. Họ là những người đầu tiên quan tâm đến việc nghiên cứu thiên nhiên, tận tụy tìm các giải pháp chống lại các nguy hiểm đe dọa họ. Việc trên đây cho thấy khoa học và tôn giáo đều cùng một nguồn gốc.

Nguồn gốc chung ban đầu của khoa học và tôn giáo cũng chính là điều tách riêng. Tại sao chúng tách riêng? Câu trả lời nằm trong tính chất của chính chân lý.

Sự đe dọa của thiên nhiên là mối lo lắng cấp bách, một vấn đề sống chết của nhân loại. Sự đe dọa là trực tiếp và ngay trước mắt. Dù muốn làm gì, cũng phải có giải pháp đối với thiên nhiên đã. Mọi người đều phải đối đầu như nhau trước những nguy hiểm giống nhau. Giải pháp phải thích hợp cho một nhóm người và cho toàn thể xã hội. Với tình trạng đó, sự cần thiết phải có là một giải pháp để đối phó kịp thời, giải quyết được những yêu cầu cấp bách ấy. Khi một giải pháp xuất hiện và có thể chấp nhận được thì nó cấu thành tôn giáo.

Những biện pháp trên có nhiều hình thức, thí dụ những nghi lễ thần bítheo quan niệm hiện đại, chúng có vẻ kỳ khôi, nhưng dù có đúng như vậy thì chúng cũng vẫn là những biện pháp được áp dụng tức thời trước đòi hỏi. Theo xu hướng của xã hội, hành động trên trở thành tôn giáo.

Sau đó khi sự đe dọa cấp bách đã qua đi, một nhóm khác có lẽ nảy sanh từ nhóm thứ nhất thâu thập các dữ kiện, phân tách và thử nghiệm. Nhóm này đi đến nhiều giải đáp khác nhau, do sự quan sáthệ thống từng bước một. Đó là diễn tiến hình thành 'khoa học', kiến thức thâu lượm do phương pháp phân loại của sự quan sát từng bước một.

Đây là điểm phân rẽ giữa khoa học và tôn giáo. Câu giải đáp để giải quyết nhu cầu cấp thời cho quần chúng, thiếu phương pháp phân loại quan sát, phụ thuộc nhiều vào niềm tinđức tin. Đó là tôn giáo. Tôn giáo, do vậy, gắn chặt với niềm tin.

Mặt khác, khoa học là kỷ luật nghiên cứuhệ thống từng bước một. Nó không đòi hỏi tìm ngay một giải đáp kịp thời, và chỉ ứng dụng cho một nhóm người thích như thế chứ không phải cho toàn thể xã hội. Vì lý do trên, có những cá nhân hay nhóm nguời tiến hành thu thập thông tin, quan sáthệ thống, sử dụng các phương pháp có kiểm chứng, công việc này trở thành 'khoa học'.

Đến đây, chúng ta có sự phân biệt rõ ràng giữa tôn giáo và khoa học: tôn giáo dành cho toàn thể xã hội hoặc tất cả các nhóm người, trong khi khoa học chỉ ứng dụng giới hạn cho một số người. Bây giờ vấn đề nêu lên là tôn giáo làm sao duy trì tính đồng dạng trong ngữ nghĩa giáo lý và sự thực hành giáo lý? Việc này chỉ hoàn tất được qua niềm tin. Gốc rễ của tôn giáoniềm tin, sử dụng niềm tin để bảo tồn cái tinh túy thực chất của mình, cung cấp một hệ thống đức tin vững vàng, một hệ thống được tôn trọngủng hộ, một hệ thống không được nghi ngờ thắc mắc. Ở Phương Tây, điều này được gọi là giáo điều.

Khoa học chỉ giới hạn cho một số người mà nó truyền tới, những tư tưởng gia. Họ bảo tồn cái thực chất của khoa học qua sự thực được kiểm chứng, sử dụng các phương pháp thí nghiệm có cơ sở vững chắctruyền bá sự thực qua sự thông thái, hay nói cho đúng hơn, phương pháp khoa học.

Tôn giáo truyền đạt chân lý tuyệt đối, bao quát, một giải đáp cần cho nhu cầu cấp thời. Nói cho đúng hơn không phải tôn giáo cung cấp câu giải đáp mà là câu giải đáp cung cấp cái trở thành tôn giáo. Không phải là có một thể chế gọi là tôn giáo đã hiện hữu trước đó tìm ra mhững giải đáp trên, đúng hơn là những giải đáp đó được đề xướng bởi nhân loại, đã trở thành cơ cấu tôn giáo. Câu giải đáp được đề nghị bởi nhiều người, hay một người, và thời gian cứ qua đi, những người này được người khác theo, và cơ cấu thành hình, phục vụ việc bảo tồn giáo lý. Như vậy chúng tahình thức tôn giáo như khất sĩ, thầy tu, nhà sư, vân vân...

Nhìn vào ở một khía cạnh, tôn giáo tìm cách cung cấp câu giải đáp tuyệt đối, câu giải đáp cho câu hỏi căn bản về đời sống, bao gồm mọi thứ, từ cái cao nhất đến thấp nhất.

Mặt khác, khoa học, tìm cách quan sát sự thực từ sự bày tỏ riêng rẽ, từng mảnh một. Do sự thâu thập từng mảnh một, từng phần của sự thực, dần dà tiến đến một bức tranh toàn bộ.

Mặc dù, khoa học, cũng vậy, muốn có một nguyên lý tổng quát, nhưng nguyên lý tổng quát lại có điều kiện, bị hạn chế trước những tình trạng đặc biệt cùng các điều kiện, chỉ là một phần của toàn bộ hay sự thực cơ bản. Chúng ta có thể nói tôn giáo cho câu trả lời toàn vẹn, khoa học chỉ cho mảnh một.

Tại điểm này, chúng tôi xin nói thêm rằng do các giới hạn của tôn giáo và khoa học, nảy sanh nhóm thứ ba; nhóm này bất mãn với cả hai. Nhóm này muốn có câu giải đáp cho những vấn đề căn bản về đời sốngvũ trụ, câu trả lời tuyệt đối đúng, họ bất mãn với tôn giáo vì câu trả lời không nêu ra lý lẽ mà lại nói về niềm tin. Khi họ quay sang nhìn về khoa học, mặc dầu câu trả lời có thể kiểm chứng và dựa theo lẽ phải, nhưng câu trả lời cũng không thật tuyệt đối đúng. Sự nghiên cứu chưa đạt được mức độ cơ bản của sự thật.

Nhóm này không muốn chờ đợi câu giải đáp của khoa học, họ tìm kiếm giải đáp cho những câu hỏi cơ bản qua lập luận suy xét không cần đến sự xác minh kiểm chứng. Hệ thống tư tưởng này trở thành một loại khoa học khác, được gọi là 'Triết Lý'.

Chúng ta có thể so sánh ba môn này với những câu hỏi cơ bản về tự nhiên làm thước đo như sau:

1. Khoa Học: Đang còn trong tiến trình xác minh, và quan sát vẫn còn đi tìm câu giải đáp.
2. Triết Lý: Thay vì phải xác minh kiểm chứng, dùng công cụ phân tích hợp lý để cho câu giải đáp.
3. Tôn Giáo: Cung cấp một câu giải đáp hoàn toàn mà không cần đến sự xác minh.

Cả hai khoa học và triết lý đều xuất hiện sau tôn giáo, đều cố gắng cho các câu giải đáp rõ ràng hơn tôn giáo. Tuy nhiên, cả hai thất bại trong sự giải đáp để thỏa mãn những mong muốn trên toàn bộ căn bản, đó là lý do tại sao tôn giáo vẫn hiện hữu tuy chỉ cho câu giải đáp căn cứ trên niềm tin.

Nhiều tôn giáo, một khoa học

Sau khi đã xét những khác biệt giữa tôn giáo và khoa học, tôi muốn đưa ra một vài nhận định về sự khác biệt này.

Vì lẽ tôn giáo đưa ngay ra sự thật bao quát và trực tiếp, câu giải đáp thích hợp cho đại chúng, nhưng đồng thời chưa được xác minh qua một trong năm giác quan, nên phải dựa vào niềm tin. Vì câu giải đáp chưa được kiểm chứng nên càng ngày càng nẩy nở. Vào một thời điểm, một câu giải đáp được đưa ra, người ta không biết câu đó đúng hay sai, vì không thể xác minh được. nếu tin tưởng thì chấp nhận. Một thời gian sau, một câu giải đáp mới lại được đưa ra, không một ai có thể biết là câu này có đúng không vì không được xác minh kiểm chứng. Vấn đề tùy thuộc vào sự chọn lựa của cá nhân, chung qui là sở thích. Một số người giữ niềm tin cổ xưa, số khác theo niềm tin mới. Tôn giáo, xây dựng trên niềm tin, thay đổi tùy theo niềm tin đó. Vì lẽ này, chúng ta thấy có nhiều tôn giáo khác nhau trong bất cứ thời đại nào.

Tại sao như thế? Đó là bản chất của các câu giải đáp. Sự giải đáp toàn bộ, tuyệt đối phải như vậy. Nó không thể xác minh được vì dựa theo niềm tin. Khi có câu giải đáp mới, một số người tin, nhưng tất cả những giải đáp đều không kiểm chứng được.

Mặt khác, khoa học giải đáp chậm rãi nhưng có phương pháp, kiểm điểm từng bước một trong tiến trình. Khoa học giải quyết vấn đề bằng trí thức. Bất cứ thời đại nào cũng chỉ có một khoa học. Cho nên chúng ta thường nói: 'Có nhiều tôn giáo, nhưng chỉ một khoa học'.

Tuy nhiên, nhìn từ góc độ lịch sử, chúng ta thấy có nhiều khoa học, vì khoa học không đưa ra một quan điểm toàn thể về chân lý. Có nhiều tôn giáo, nhưng từ góc độ lịch sử cũng có nhiều khoa học. Lý thuyết về bản chất vũ trụ thay đổi theo thời gian. Câu giải đáp của khoa học mới đầu được cho là đúng lại hóa ra sai. Với dòng thời gian, lúc tiên khởi sự kiện đúng thật đã thay đổi. Một bức tranh mới lại được mở ra.

Ở một điểm thời gian, khoa học theo Hệ Thống Ptolemaic, cho rằng địa cầu là trung tâm vũ trụ. Rồi đến Hệ Thống Copernician, lấy mặt trời làm trung tâm, theo kiểu Hệ Thống Copernicius, đến Hệ thống Cartesian và Newtonian, và bây giờ chúng tavũ trụ của vật lý mới. Bức tranh khoa học không ngừng thay đổi. Thiên nhiên hay Vũ Trụ, theo lý thuyết vật lý hiện đại, dù là thuyết Lượng Tử hay thuyết tương đối thì cũng hoàn toàn khác hẳn với thời Newton về vũ trụ. Ta đã có nhiều khoa học qua nhiều thời đại.

Hơn thế nữa, không chỉ có nhiều khoa học qua các thời đại mà dường như là hiện nay chúng ta còn có nhiều khoa học cũng tồn tại. Đến nỗi một số khoa học gia tuyên bố đã đến lúc khoa học phải thay đổi một số tiền đề căn bản. Những khoa học gia này bác bỏ một số tiền đề khoa học cổ để nói về ' tân vật lý ' và 'tân khoa học' . Điều này cho thấy không phải chỉ có một khoa học mà thôi.

Tôi mới nói đến quan hệ của khoa học với thế giới bên ngoài qua năm giác quan. Trong việc này, tôn giáo còn có một đặc tính khác. Tôn giáo không những chỉ nhìn vào thế giới bên ngoài, mà tự nó đã quan tâm đến con người, đến những đối tượng. Khoa học chỉ quan tâm tới những mục tiêu quan sát, còn tôn giáo tự nó cũng quan tâm đến người quan sát, đến người sử dụng năm giác quan căn bản. Dầu vậy tôn giáo không chỉ hạn chế ở năm giác quan, mà còn trực tiếp liên quan đến trình độ mở mang của mỗi cá nhân. Tôn giáo nhận thức trực tiếp đến mức độ phát triển tinh thần của người nhận thức, nên có phần phức tạp hơn.

Bất luận thế nào, với đà tiến triển ngày nay, tôn giáo vẫn đặt trọng tâm vào chúng sanh, quan tâm đến trở ngại của chúng sanh, và khó khăn ấy cần phải được giải quyết. Khi tìm hiểu các nguyên nhânyếu tố gây ra khó khăn ấy, đa số tôn giáo chuyển hướng tìm căn nguyên, giống như khoa học tìm căn nguyên ở thế giới vật chất bên ngoài. Trong phạm vi ấy, đa số tôn giáo không khác biệt gì khoa học: nhìn vào thế giới thiên nhiên bên ngoài như là nguồn gốc của khó khăn, của khổ đau. Sự tìm kiếm chân lý của tôn giáo là để giải quyết khó khăn cho nhân loại, trong khi sự tìm kiếm chân lý của khoa học chỉ là thỏa mãn sự khao khát của kiến thức.

Hầu như các tôn giáo đều thấy nguyên nhân khó khăn, dù từ bên trong hay bên ngoài, đang náu mình trong thế giới thiên nhiên, trong các dạng thức như thần linh, thánh thần, thượng đế hoặc các lực lượng siêu nhiên khác. Với những tai ương bên ngoài như sấm sét, động đất vân vân..., việc cầu nguyện và cúng tế cho các lực lượng ấy. Với những rối loạn bên trong, như đau yếu, bệnh thần kinh, cuồng loạn, các ông đồng bà cốt hoặc thầy phù thủy trừ tà thường thi triển các lễ nghi huyền bí. Khoa học không bắt buộc tìm ngay câu giải đáp cứ từ từ lo liệu việc nghiên cứu các dữ kiện một cách có hệ thống.

Những tôn giáo nhân sinh, đặc biệt Phật Giáo, mặc dù chú trọng đến điều kiện con người, nhưng coi nguồn gốc khó khăn không hoàn toàn nằm trong thế giới bên ngoài. Loại tôn giáo này tìm nguồn gốc khó khăn trong toàn bộ tiến trình nguyên nhân - điều kiện gồm cả những cái đó trong con người, thí dụ cách kiếm sống sai - dù chúng ở bên trong hay bên ngoài, hữu hình hay vô hình, vật chất hay tinh thần.

Trong số các tôn giáo thông thường nhiều tôn giáo dạy cách đối trị khó khăn bằng những phương tiện thích hợp, thông qua luân lý hay đạo đức. Điều đó dường như biểu thị quan niệm về những yếu tố bên ngoài góp phần gây nên khó khăn, nhưng cững không nhất thiết trường hợp nào cũng như vậy. Thực ra, kiểu thực hành niềm tin như thế thường không được tiến hành bằng sự hiểu biết thực sự những yếu tố đó, mà là vì sự phục tùng một thế lực siêu nhiên bên ngoài nào đó. Đây là mối quan hệ giữa nhân loạisức mạnh bên ngoài. Lối cư xử đạo đức trong các tôn giáo ấy thuờng được áp dụng để tránh hình phạt, được ưu đãi hay phúc lợi, hơn là tỉnh thức trước các nhân tố xẩy ra trong tiến trình tự nhiên.

Nhiều tôn giáo thay đổi theo thời gian để đáp ứng nhu cầu của mọi tầng lớp dân chúng. Vào bất cứ lúc nào, xã hội đều gồm có nhiều mức độ phẩm hạnh và hiểu biết khác nhau, và tôn giáo cần đáp úng các mức độ nhu cầu khác nhau ấy.

Trong quá khứ, chân lý khoa học được xác minh do năm giác quan, nhưng nay đã khác. Trước đây quan sát được thực hiện bằng năm giác quan - v?i mắt thường, tai thường, trực tiếp bằng tay vân vân... Nhưng theo tiến trình của thời gian,sự cần thiết là phát triển các dụng cụ, như viễn vọng kính, kính hiển vi, để mở rộng khả năng của giác quan. Các dụng cụ đó ngày một được sáng chế tinh vi hơn, cho đến nay có thể thí nghiệm các giả thiết bằng toán học. Ngôn ngữ toán học trở thành các dụng cụ chính xác để kiểm chứng. Kết quả của việc phát triển rộng lớn này đưa đến sử dụng máy vi tính.

Sự phát triển khoa học làm tăng truởng các phương tiện để xác minh kiểm chứng nảy sanh nét đặc biệt khác hẳn với tôn giáo. Sự xác minh và quan sát của khoa học trở thành lãnh vực chuyên môn dành riêng cho một thiểu số được chọn lựa. Một người bình thường không thể nhìn thấy sự thực của khoa học, vì không có dụng cụ cần thiết. Khoa học trở thành môn học rất chọn lọc.

Tôn giáo thuộc về đại chúng. Tôn giáo thích hợp cho người bình thường, có thể hoàn toàn tự do chấp nhận hay chối bỏ tôn giáo mà không cần chứng cớ. Thật ra trong một số tôn giáo cũng có điều giống như khoa học, dành riêng chân lý của họ cho một ít người chọn lựa, các thầy tu hay các nhà sư thậm chí dành quyền đạt các quả vị tinh thần hơn là để lôi kéo các cá nhân. Trong các tôn giáo nhân sinh như Phật Giáo, không có sự phân biệt hay miễn trừ cho cá nhân nào vì thiên nhiên chính là chủ tể của nó. Làm sao có thể độc quyền được? Mỗi cá nhân đều có quyền hiểu và đạt sự thực của thiên nhiên, do trí thông minh cùng sự sáng suốt.

Chúng ta hãy ghi nhận hai loại bất lực để kiểm chứng chân lý. Một là không có dụng cụ kiểm chứng, và hai là chân lý không thể xác minh bằng các phương tiện đang được sử dụng. Ngày nay, khoa học gặp khó khăn về cả hai truờng hợp, đặc biệt là khi muốn đưa ra lời tuyên bố về chân lý tối hậu, hay nghiên cứu sâu vào địa hạt tâm.

Nếu khoa học không mở rộng tầm nhãn quan, khoa học sẽ đi đến đường cùng không lối thoát. Khoa học có hoài bão khao khát giải đáp những câu hỏi cơ bản và chủ yếu về vũ trụ, nhưng chưa bao giờ đi đến kết quả. Giống như khi gần đến bên lề câu giải đáp, thì chân lý hình như lại tuột khỏi tầm tay.

Tuy minh bạch nhưng vẫn bối rối

Ngày nay chúng ta bắt đầu thấy có nhiều loại khoa học khác nhau cùng tồn tại. Ngoài tân khoa học và khoa học cổ điển, hay tân vật lývật lý cổ điển, chúng ta có khoa học cho các chuyên gia và một khoa học cho người bình thường. Sở dĩ như vậy vì khái niệm nói trong khoa học nhiều khi hoàn toàn vượt qua khả năng hiểu biết của người bình thường có thể hình dung được. Không những không thể kiểm chứng cho chính mình mà còn không thể hiểu thấu các khái niệm ấy. Điều này không thể xẩy ra với người bình thường, một số khái niệm khoa học thâm chí còn vượt qua khả năng hiểu biết của số đông khoa học gia! Mình chỉ hiểu được lời nói của mình mà thôi.

Hãy lấy thí dụ. Theo khoa học, ánh sáng cùng lúc là làn sóng lại vừa là hạt. Các khoa học gia cố gắng giải thích tính chất của ánh sáng: nó là làn sóng hay hạt? nó là một phần tử hay hạt, có đúng không? Nhóm này nói: 'Đúng, nó là hạt, một dòng protons (Vi-phân nguyên tử dương điện)'. Nhóm khác lại bảo: 'Không, nó là làn sóng'. Cuối cùng, dường như ánh sáng là cả hai, vừa là sóng vừa là hạt. Hừ, thế là cái gì? Nó có thể chứng minh bằng toán học được không. Người bình thường không thể hiểu nổi vì sự việc loại này vượt qua tầm hiểu biết của họ.

Hãy thử nhìn vào thí dụ khác. Những hố đen, các nhà thiên văn học nói những hố đen rải rác khắp vũ trụ. Chúng là tinh tú mà ngay cả ánh sáng cũng không thoát ra được, chúng đen ngòm. Tóm lại, không có gì có thể thoát khỏi lực hấp dẫn cực cao của chúng. Cả đến ánh sáng cũng không thể phát ra được. Với một người bình thường, cái đó để làm gì? Cái gì mà ánh sáng cũng không thoát khỏi?!

Rồi lại nói trong những hố đen ấy, cả hai vật chất và năng luợng kết đặc lại cực kỳ kinh khủng. Không gì trên trái đất của chúng ta có thể đem so sánh. Để có một vài khái niệm, họ bảo nếu tất cả khoảng trống trong không gian, bằng cách nào đó được ép thành một tòa nhà chọc trời, như tòa nhà chọc trời Empire State Building với 102 tầng lầu cao, khối lượng và năng lượng của nó kết đặc lại chỉ bằng cỡ một cái kim! Một tòa nhà chọc trời! Lấy tất cả khoảng trống không gian ra khỏi và tất cả còn lại chỉ cỡ bằng một cái kim! Dân quê sẽ hình dung cái đó như thế nào?

Khoa học gia nói các hố đen ra sao là tùy họ. Thực tế nó còn lạ lùng hơn, vì lẽ, tuy có thể bằng cỡ một cái kim, mà nó vẫn cân nặng bằng cả tòa nhà chọc trời Empire State Building. Không thể tưởng tượng được - Tất cả những gì mà chúng ta có thể làm là đành tin như vậy. Đã từ lâu chúng ta tin vào các khoa học gia, không hoài nghi về họ. Nhưng tự trong đáy lòng, chúng ta đều hoang mang, 'Hừ, cái đó có đúng không?'

Khoa học gia vẫn còn chưa thể giải đáp các câu hỏi về cuộc sống và thế giới, vẫn tiếp tục các công tác như thâu thập dữ kiện để xác minh và kiểm chứng. Khoa học vẫn chưa giải thích nhiều câu hỏi bản chất về vũ trụ, thậm chí sự tồn tại của nó ở hạt cơ bản. Khoa học vượt qua ngoài điều có thể chứng minh bằng năm giác quan. Giả thiết được chứng minh bằng toán học, thuyết minh bởi các nhà vật lý học.

Chân lý được chứng minh bằng phương trình đại s?, những phương trình tự nó không phải là chân lý, không thực sự làm sáng tỏ được chân lý giúp cho người ta có thể nhận thức được. Đó chỉ là niềm tin vào những ký hiệu toán số. Những ký hiệu này được giải thích mà không có nhận thức trực tiếp của sự thực, gần giống như điều kiện do Sir Arthur Eddington nói.

Sir Arthur Eddington là khoa học gia người Anh, được ghi nhận là người đầu tiên hiểu trọn vẹn thuyết Tuơng Đối của Einstein. ông là người đầu tiên phát minh ra cách thức chứng minh Thuyết Tuơng Đối, công trạng của ông đã được (Hoàng Gia Anh ) phong hầu tước.

Theo một khoa học gia trong lãnh vực của ông, Sir Arthur Eddington có lần đã nói:

"Khoa học không thể dẫn nhân loại trực tiếp đến chân lý, hay sự thực, khoa học chỉ có thể dẫn nhân loại đến cái bóng của thế giới ký hiệu."

Trên đây là lời tuyên bố của ông - "cái bóng của thế giới ký hiệu" - một thế giới ký hiệu và dấu hiệu. Đó là lời của một khoa học gia thuộc cấp lãnh đạo thế giới.

Cả đến những hiện tượng có thể quan sát được cũng vẫn chưa hẳn là chắc chắn. Khoa học gia sử dụng phương pháp khoa học là những phương tiện để thử nghiệm việc quan sát. Yếu tố chính của phương pháp này là quan sát và thử nghiệm,phải được thi hành đến khi không còn nghi ngờ gì nữa mới thôi. Tuy vậy, sự việc cũng không đi sát mục tiêu vì những giới hạn của sự thử nghiệm và các dụng cụ sử dụng.

 

Chúng ta hãy lấy thí dụ về Định Luật Trọng Lực của Newton. Định luật đã được toàn thể thế giới chấp nhận là đúng, nhưng Einstein nói định luật này không hoàn toàn đúng. Ở mức độ tiềm nguyên tử, Định Luật Trọng Lực không được áp dụng, trong thời Newton, chưa có các dụng cụ quan sát tiềm nguyên tử. Nhân loại phải đợi đến thế Kỷ Thứ Hai Mươi, Einstein mới dùng các phương trình toán học và lý luận, tiến tới sự thực này. Cho nên chúng ta cần phải thận trọng. Quý vị không thể tin vào ngay cả các thử nghiệm.

vấn đề này tôi muốn kể một câu chuyện ngắn để đùa chơi với các khoa học gia. Đó là câu chuyện con gà và nông dân Brown. Sáng nào con gà cũng thấy bác nông dân Brown mang thức ăn cho mình. Sáng nào cũng vậy, nên nó cứ theo Bác Brown cho đến khi nó được ăn. "Con gà nhìn thấy Bác Brown = được ăn"....cái này là một phương trình. Nhưng một buổi sáng khi con gà nhìn thấy bác Brown, nó không được ăn vì bác Brown không mang theo thức ăn trong tay, bác Brown lại cầm con dao trong tay. Phương trình "con gà nhìn thấy bác Brown = được ăn" nay trở thành phương trình " Con gà nhìn thấy Bác Brown = bị cắt tiết". Cho nên dường như cả đến sự xác minh căn cứ trên việc quan sát lập đi lập lại cũng không thể hoàn toàn tin được, vẫn không phải là điều chắc chắn.

Cái mà chúng tôi muốn nhấn mạnh là chính khoa học đã tự mình càng ngày càng xa người bình thường qua những phương pháp thử nghiệm tinh vi phức tạp. Khoa học gia trở thành nhóm người được chọn lựa kỹ càng, một nhóm tinh hoa, một nhóm chuyên môn cao, trong khi tôn giáo dành cho đại chúng bình dân. Đó là điều khác biệt lớn giữa tôn giáo và khoa học.

Tiến đến việc hợp nhất khoa học và tôn giáo

Khoa học ít được sử dụng trực tiếp cho đại chúng. Nhiệm vụ của khoa học là giúp người dân trong lãnh vực hiểu biết, nhưng trên thực tế, vai trò của nó nói chung lại thông qua kỹ thuật, không cải thiện được sự hiểu biết tý nào cả.

Kỹ thuật giúp đỡ nhân loại trong chiều hướng nào? Phần lớn trong sự tiêu thụ, thường nuôi dưỡng tham sân si. Vô tuyến truyền hình được phát minh, do đó chúng ta xem vô tuyến truyền hình. Nhưng khi người dân xem vô tuyến truyền hình, họ không xem những gì làm tăng trưởng sự hiểu biếtthông minh mà xem những gì làm cho họ xiêu lòng và mất cảm giác. Chúng ta có kỹ thuật truyền thông, nhưng kỹ thuật này không dùng để mở mang trí tuệ và khả năng suy xét chính xác, mà thường dùng để khuyến khích ảo tưởng.

Dường như khoa học không chịu trách nhiệm về các sự việc trên và quăng vai trò này cho kỹ thuật giúp đỡ đại chúng. Tuy nhiên, kỹ thuật không phải lúc nào cũng có ích, mà đôi khi ngược lại còn hết sức tai hại. Như đã nói thay vì trở thành dụng cụ tạo lợi ích (để phục vụ quần chúng), kỹ thuật trở thành công cụ vụ lợi (vì quyền lợi riêng tư). Vì vậy, khoa học bỏ mặc dân trong tay tôn giáo. Quý vị trách cứ ai? Ta có thể hỏi: "Tại sao tôn giáo làm cho con người thành cả tin và ngu xuẩn", tuy nhiên cũng có thể phản ứng lại: Tại sao khoa học bỏ rơi người dân cho tôn giáo?"

Khoa học trở thành vấn đề mà chỉ một thiểu số người có thể tiếp cận. Ngoài ra tất cả còn lại chỉ biết tin vào khoa học, thực sự là họ không biết hư thực. Ngày nay, khoa học càng ngày càng biến thành vấn đề của lòng tin tưởng hay niềm tin, không còn là vấn đề kiến thức, điều đó đặt khoa học vào vị thế giống như hầu hết các tôn giáo.

Lúc này, Hoa Kỳ vẫn phải đương đầu với thuyết 'khoa học vạn năng', niềm tin mù quáng vào khoa học. Khoa học trái ngược hoàn toàn với nhẹ dạ cả tin, nó liên quan đến kiến thức và kiểm chứng sự thực một cách hợp lý, có hệ thống, nhưng ngày nay người dân rất tin vào khoa học. Khoa học gia phải nhận trách nhiệm trước tình trạng này vì bổn phận của khoa học gia là phải chia sẻ sự hiểu biết cho nhân loại, nhưng hiện nay người ta đến với khoa học trong sự nhẹ dạ, đôi khi gần như xuẩn ngốc. Không cần biết và kiểm chứng những chân lý của khoa học, họ dễ dàng tin theo.

Trước khi tiếp tục theo ý này, tôi muốn mời quý vị suy xét câu: "Có rất nhiều tôn giáo, nhưng chỉ một khoa học".

Đầu tiên, sự hiện diện của nhiều tôn giáo, nhưng chỉ có một khoa học tại bất cứ thời điểm nào là một hiện tượng tự nhiên, nảy sanh tự nhiên do bản tính con người. Cho nên điều kiện này là khoa học. Nói một cách khác, với tính cáchhiểu biết, là kiến thức về tiến trình tự nhiên của vạn vật, khoa học cũng phải hiểu được tình trạng này.

Thứ hai, sự tồn tại của nhiều tôn giáo sát cánh với khoa học, cho thấy khoa học vẫn chưa thỏa mãn được nguyện vọng lớn lao nhất của nhân loại, giải đáp các câu hỏi cơ bản về vũ trụ, hay đạt được sự diễn tả toàn diện chính xác về bản chất của sự thực. Khoa học chưa phát triển đến mức tối đa, tôn giáo vẫn cần thiết để thỏa mãn nhu cầu dù chỉ có tính cách tạm thời vì khoa học không chu toàn được.

Thứ ba, khi khoa học cuối cùng có thể tiến tới chân lý để giải đáp các câu hỏi chủ yếu của nhân loại, khoa học trở thành toàn bích. Nhiều tôn giáo sẽ không trụ lại được. Ngược lại, nếu tôn giáo nào có thể cho thấy chân lý cao nhất dẫn nhân loại đến sự thực, sẽ kết hợp với khoa học, nhập làm một và cùng một tập hợp kiến thức. Vào lúc đó, khoa học và tôn giáo sẽ vươn tới điểm gặp gỡ, điểm cuối cùng, nơi tôn giáo trở thành khoa học và khoa học trở thành tôn giáo, sự phân chia giữa tôn giáo và khoa học sẽ không còn nữa.

Khi niềm tin vào khoa học bị lung lay, sự sùng bái tôn giáo thăng hoa

Một lần nữa tôi xin tóm tắt tại điểm này là những khó khăn thực sự về đời sống trong xã hội cần đến ngay câu giải đáp - hay phải cứu chữa - ngay bây giờ, trong cuộc sống hiện tại. Con người chúng ta chỉ ở trên trái đất này một thời gian giới hạn, không thể chờ đợi được. Tình thế đe dọa không cho chúng ta thì giờ trì hoãn .

Mặc dù khoa học có thể cung cấp nhiều cách thức giải đáp hiệu quả các vấn đề, nhưng nó bị yếu đi vì 'quá ít, quá trễ'.

'Quá ít', tôi muốn nói kiến thức của khoa học không đủ để giải quyết những vấn đề căn bản của đời sống. Khoa khọc không làm cho con người thành tử tế, không làm cho họ hạnh phúc, không làm sao cho họ sửa các thói quen xấu, không thể giải quyết khổ đau, buồn thảm, sân hận, luyến tiếc, thất vọng vân vân ...Thậm chí khoa học không thể giải quyết vấn đề xã hội.

Đáp lại điều này, các khoa học gia có thể nói rằng khoa học có thể giúp bằng nhiều cách. Những người bị mất ngủ, suy nhược, đau thần kinh được trị liệu bằng thuốc. Khoa học có lợi ích lớn trong địa hạt này. Khoa học và kỹ thuật trong lãnh vực y học giúp ích không biết bao nhiêu người. Điểm này phải được công nhận. Những người bị bệnh thần kinh nặng đã được giúp ích ở mức độ nào đó bởi khoa học.

Có lẽ các khoa học gia sẽ nghiên cứu trong tương lai làm cho con người hạnh phúc bằng thuốc. Bất cứ lúc nào quý vị cảm thấy không còn hạnh phúc, quý vị chỉ việc dùng một viên thuốc là xong... nhưng vấn đề không phải là thuốc mà là tìm lạc thú. Khoa học gia sẽ nghiên cứu tính chất của bộ não, tìm xem hóa chất nào tiết ra tương ứng với các cảm xúc nào đó như cảm xúc sung sướng, khi tách được tác nhân hóa học đó, các khoa học gia có thể tổng hợp các hóa chất này lại. Bất cứ lúc nào cảm thấy thất vọng hay buồn nản, con người chỉ việc dùng thuốc là hết ngay. Thoạt nhìn, tưởng chừng khoa học có thể làm được mọi thứ, thậm chí có lẽ giải quyết được tất cả những vấn đề thế giới. Nếu quả làm được cho con người hạnh phúc, con người sẽ không còn sợ thất vọng hay buồn nản. Với loại hóa chất đó, dễ mua như thực phẩm, con người lúc nào cũng sẽ hạnh phúc, không bao giờ còn bị thất vọng nữa.

Tuy nhiên suy xét đến nguy hiểm của hóa chất, chúng ta đã mục kích thế giới hiện trong tình trạng quá lộn xộn với thuốc diệt trùng và hóa chất để tồn trữ thực phẩm, đừng có thêm gì nữa. Tuy nhiên, việc này không phải là điểm quan trọng nhất. Thậm chí quan trọng hơn là triển vọng của các giá trị (tiêu chuẩn đạo đức), tức là chất lượng của cách sống. Mục tiêu của tôn giáodẫn nhân loại đến tự do. Tự do ở đây có nghĩa khả năng được hạnh phúc mà không cần đến tác nhân bên ngoài, càng ngày càng sung sướng tự tại và ít dựa vào bên ngoài, để phát triển một cuộc sống không bị lệ thuộc trước những cái hào nhoáng bên ngoài. Nhưng việc dùng thuốc buộc người ta ngày càng đặt nhiều hạnh phúc và số phận của mình vào tay ngoại cảnh, làm cho người ta ngày càng ít sống với chính mình.

Nếu khoa học là nguyên nhân làm con người ngày càng lệ thuộc vào bên ngoài, thì khoa học chẳng khác chi các tôn giáo cổ xưa, dẫn dắt con người đầu tư số phận của mình vào thần thánh với hiến tế (sanh vật), cúng thần và cầu khẩn. Trong hai trường hợp trên, hạnh phúcđau khổ của con người đều nằm trong tay các tác nhân bên ngoài, một đằng dùng vật chất để dâng cúng, một đằng dùng dùng chất lượng tượng trưng, nhưng thực chất cả hai đều phá hoại cái độc lập của con người.

Nếu sự việc tiến đến giai đoạn đó, con người chúng ta chỉ còn biết chấp nhận. Nếu đúng là như thế, chúng ta không còn là con người tự nhiên nữa, mà là người khoa học hay nhân tạo, hoặc là một loại chúng sanh nào đó không thích nghi nổi trong môi sinh thiên nhiên.

Điều mà tôi vừa đề cập đến là thí dụ về cái mà tôi muốn nói là 'quá ít'. Khoa học tự nó không đủ khả năng để giải quyết các vấn đề nhân loại. Theo từ ngữ dùng trong nhà Phật, chúng ta có thể nói khoa học và kỹ thuật không giúp phát triển các đức tính của tâm hay định tâm. Khoa học và kỹ thuật bị cái nhìn hẹp hòi, chỉ tìm cách thâu thập các dữ kiện mà không cung cấp cho chúng ta kiến thức để làm sao sống một cuộc sống thực sự hạnh phúc (panna) (x)

(x) Sila, Samadhi, và Panna, hay giới, định và huệ là ba giáo lý căn bản trong việc tu tập giới hạnh Phật Giáo.

Điều phản đối thứ hai của chúng ta với khoa học là 'quá trễ'', chúng ta không thể chờ đợi được nữa. Chân lý khoa học không phải là trọn vẹn và đầy đủ. Khoa học chưa cho ta câu giải đáp dứt khoát, cùng chưa có dấu hiệu chứng tỏ đến bao giờ mới có được. Kiến thức khoa học thay đổi không ngừng. Có lúc chân lý là thế này, nhưng ít lâu sau chân lý lại thế khác. Chân lý hình như lúc nào cũng thay đổi. Nếu chúng ta phải ngồi đợi cho đến khi đi đến câu giải đáp cuối cùng về tính chất của Vũ Trụ, chúng ta sẽ chết trước mà chẳng bao giờ biết cách chỉ đạo cách sống của chúng ta.

Khoa học gia bao giờ cũng tìm kiếm một nguyên lý tổng quát, nhưng bất cứ nguyên lý nào tìm ra cũng chỉ là nguyên lý phụ, chỉ là một phần của toàn bộ bức tranh. Trong khi khoa học chưa đưa ra được lời giải thích về chân lý cơ bản, chúng ta đã sử dụng khoa học, thông qua kỹ thuật, để nâng cao đời sốngthỏa mãn dục vọng. Giờ đây, cái đã giúp nhân loại là kỹ thuật, vì kỹ thuật ít nhất có thể sử dụng vào một điều gì đó hơn là chính khoa học. Nhưng kỹ thuật không thể trả lời những câu hỏi cơ bản của loài người, của thế giới thiên nhiên nên trước nhất nhân loại phải dựa vào tôn giáo, chỉ sử dụng khoa học cho tiện nghi qua tiến bộ của kỹ thuật. Đó là tình trạng ngày nay.

Tại sao con người vẫn cần đến tôn giáo? Tại sao tôn giáo vẫn hiện hữu trên thế giới này? Vì nhân loại còn chờ đợi một câu giải đáp đầy đủ, câu giải đáp tuyệt đối, đáp đúng tình thế, và có thể thực thi được ngay. Vì câu giải đáp không thể xác minh được, vì lẽ khoa học không thể kiểm chứng được cho con người, nên con người phải viện đến niềm tin.

Mặc dù khoa học đã thực thi được những tiến bộ vĩ đại, nhưng tất cả những gì đã làm được chỉ mở rộng tối đa cái có thể nhận thức được về thế giới vật chất càng ngày càng phức tạprắc rối. Để trả lời những câu hỏi cơ bản của nhân loại, trình bày sự liên hệvị trí đích đáng của con người trong thế gian, dường như khoa học vẫn dẫm chân tại chỗ chưa có một tiến bộ thực sự nào cả.

Chẳng hơn gì những sai lầm ngớ ngẩn

Không chỉ trong lãnh vực Khoa Học Thuần Túy thỉnh thoảng lại phát hiện ra các sai lầm. Ngay cả trong phạm vi Khoa Học Ứng Dụng và Kỹ Thuật, những điều lầm lẫn vẫn thường thấy xẩy ra. Thường không phải là làm sai quấy, những việc làm sai, những lỗi lầm là do sự ngu dốt, thiếu sót và thiếu thận trọng.

Thí dụ như thuốc Chloramphenicol. Một thời gian thuốc này được phổ biến lan tràn. Một thứ thuốc tuyệt diệu hình như chữa được bách bệnh. Ai ai cũng thích và chúng ta ai nấy đều nghĩ rằng chúng ta sẽ không còn bệnh tật mãi mãi. Khi nào bạn đau yếu, bạn chỉ cần chạy đi mua Chloramphenicol được bán khắp nơi. Sau này, khoảng mười năm sau, người ta đã khám phá ra thuốc này nếu dùng thường xuyên sẽ tích tụ trong cơ thể làm cho tủy trong xương không sanh hồng huyết cầu và nhiều người đã chết vì thiếu máu.

Rồi đến trường hợp thuốc DDT. Lúc ấy, người ta nghĩ rằng với thuốc DDT, vấn đề côn trùng trên thế giới sẽ không còn nữa - như kiến, muỗi .... sẽ bị tận diệt. Chúng ta nghĩ là có thể tận diệt những sinh vật ấy, và không còn bị chúng phiền hà nữa.

Nhiều năm sau người ta khám phá ra thuốc xịt DDT có chất Carcinogenic gây ung thư, một chất tiềm ẩn khả năng gây nguy hiểm cho người. Hơn nữa, trong khi con người bị chịu hậu quả tai hại của thuốc này thì loài côn trùng trở thành miễn nhiễm, thuốc đó vô hiệu quả với chúng. Không lâu, thuốc trở nên vô dụng với côn trùng, nhưng lại có thể giết người. Nhiều quốc gia đã ra lệnh cấm sử dụng thuốc DDT, nhưng đến nay, Thái Lan vẫn còn dùng.

Tiếp theo là thuốc Thalidomide. Thalidomide là một loại thuốc giảm đau và an thần được các nhà y khoa chuyên nghiệp hết lời ca ngợi. Người ta đồn thuốc này đã được thử nghiệm hết sức nghiêm ngặt, và được tin cậy đến nỗi loan báo rằng đây là loại thuốc hết sức bảo đảm. Thalidomide được đề cao đến nỗi cả đến những quốc gia phát triển rất thận trọng về thuốc men cũng cho phép mua mà không cần toa. Thuốc được bán tự do trong vòng năm năm, đến năm 1961 người ta khám phá ra các phụ nữ mang thai dùng thuốc đó đã sanh con dị dạng. Cho đến khi nhận ra hiểm họa và thuốc bị cấm bán trên thị trường thì 8000 trẻ bị dị dạng đã ra đời do kết quả của việc dùng thuốc này.

Chúng ta hãy thêm một thí dụ nữa, vụ hóa chất CFC (Chloro-Fluoro-Carbons). Nhóm hóa chất này rất thông dụng cho máy ướp lạnh, máy điều hòa không khí, và trong các hộp cần sức ép.Những hóa chất này được sử dụng trong thời gian rất lâu với đầy tin tưởng. Sau chúng ta đã biết việc gì xẩy ra, hóa chất bốc lên thượng tầng khí quyển và làm thủng tầng ô-zôn. Nhiều sự kiện như thế gây tai hại không ít, các khoa học gia rất lo lắng, hội nghị quốc tế được triệu tập để tìm các giải pháp ngăn chặn. Cho nên một kiến thức mới mà ta tưởng là điều tốt lại chính là điều tai hại.

Khi khoa học và tôn giáo hợp nhất, nhân loại sẽ nhận thức được điều thiện tối thượng.

Trước khi sang phần khác, chúng tôi muốn thêm một nhận xét nho nhỏ. Sự xuất hiện và phát triển của khoa học chắc chắn làm tăng sự hiểu biếttrí thông minh con người, vấn đề này chúng ta không có gì cần phải bàn cãi. Nhưng đồng thời, nếu nhìn kỹ chúng ta lại thấy khoa học làm cho trí thông minh và sự hiểu biết của con người suy thoái. Tại sao vậy? Trong những thời đại trước, khi khoa học mới bắt đầu nổi và phát triển, người ta có ấn tượng tốt đẹp về các thành quả của khoa học. Người ta rất hứng thú về những khám pháthành quả kỹ thuật của khoa học. Người ta đặt niềm hy vọng hoàn toàn vào khoa học và kỹ thuật để có câu giải đáp cho mọi vấn đề. Tất cả những bí ẩn của thiên nhiên sẽ được khám phá, khoa học sẽ dẫn nhân loại đến một thời đại hoàn toàn hạnh phúc.

Những người này hết lòng tin tưởng vào khoa học, họ chuyển hướng, bắt đầu nghi ngờ tôn giáo cùng những câu giải đáp của tôn giáo. Nhiều người mất niềm tin và xa rời tôn giáo.

Bất hạnh thay, chân lý mà khoa học đề cập đến chỉ là một phần chân lý hoặc chân lýtính chất chuyên môn. Nó chỉ liên hệ đến thế giới vật chất. Khoa học không có câu giải đáp cho vấn đề nội tâm con người, câu giải đáp mà trước đây họ đến với tôn giáo. Sự xa rời tôn giáo trong thời hiện đại sẽ không đến nỗi mất mát quá to lớn, nếu chúng ta chỉ cần nói đến các dạng thức được coi là tôn giáo, nhưng sự xa rời này là xa rời phần chính yếu của tôn giáo liên hệ với việc giải quyết các vấn đề trong nội tâm con người.

Vì khoa học không quan tâm đến những vấn đề trên, và người ta xa rời tôn giáo, nên đó là một thiếu hụt to lớn cần bù đắp. Những giải đáp do tôn giáo đưa ta trước đây đã bị phớt lờ, làm châm sự phát triển tinh thầntrí tuệ của nhân loại. Không những thế, trong nhiều trường hợp còn làm cho tinh thầntrí tuệ thoái hóa.

Bản chất việc đời, các vấn đề nhân sinhcon người không cho phép nhân loại bỏ qua nhu cầu về tôn giáo. Câu giải đáp thực tiễn, cơ bản và cấp thời, từ trước đến nay lúc nào cũng cần thiết. Khi khoa học không có khả năng đáp ứng nhu cầu này và khi đã chán mê say khoa học, con người trở về với lý trí và nhớ lại nhu cầu cơ bản bên trong. Một lần nữa họ quay về với tôn giáo để có câu giải đáp. Nhưng vì dòng phát triển tinh thần đã bị ngưng lại, bị cản trở một thời gian đã bị suy thoái, nên sự tìm kiếm như thế rất không ổn đinh. Do đó cần phải làm lại từ đầu. Điển hình là sự phát triển tôn giáo được thấy tại một số quốc gia tiên tiến, mặc dầu sống giữa sự tiến bộ khoa học, vẫn có những người điên khùng, khờ dại rơi vào tay bọn lừa bịp (x).

(x) Ám chỉ đến sự gia tăng của những giáo phái lập dị kì quặc tại các nước kỹ nghệ phát triển cao độ.

Tuy nhiên, khoa học không phải là không hữu ích dẫn đến hiểu biết tốt hơn trong phạm vi tôn giáo. Người ta biết rõ tôn giáo đặc biệt ở dạng có tổ chức, đã từng đóng vai trò tích cực ngăn cản sự phát triển trí thông minh con người. Cũng có một vài tôn giáo mù quáng bám vào niềm tinthực hành vô lý ngớ ngẩn ngay trước những nguyên lý cơ bản của chính mình.

Sự phát triển của khoa học, đặc biệt về thái độphương pháp, có một số ảnh hưởng tốt đến tôn giáo cùng thái độ tôn giáo trong xã hội. Do vậy, ít nhất, tôn giáo có cơ hội hành động như chất xúc tác, để xét lại một số giáo lýthái độ của mình. Khoa học phát triển cũng là tiêu chuẩn để đánh giá những câu giải đáp của các tôn giáo, cho các tôn giáo cơ hội để hiểu nhau.

Tuy nhiên, từ quan điểm của đại chúng, đặc biệt tại các quốc gia chịu ảnh hưởng của khoa học, dường như khoa học không có hiệu quả đáng kể cho lợi ích đời sốnghạnh phúc tinh thần người dân. Khoa học không quan tâm mấy đến đa số quần chúng. Mặc dù đa số nhìn khoa học với thiện cảm, nhưng tin tưởng khoa học thì lại như tin vào cái gì thần thông và huyền bí. Niềm tin của họ mộc mạc không căn cứ trên kiến thức. Đó là ' thuyết khoa học vạn năng '. Khi người dân nghĩ về khoa học, họ nghĩ ngay về kỹ thuật là phương tiện đem lại lạc thú cho họ. Vì lý do đó, sự phát triển của khoa học rất ít ảnh hưởng tích cực về kiến thức, hiểu biết, hay thái độ của xã hội.

Ở góc độ lạc quan hơn, tại thời điểm này, hình như người ta không còn cảm thấy hứng khởi về khoa học và bắt đầu nhìn vào nhu cầu của họ trong mối liên hệ với tôn giáo. Một số tôn giáo đáp ứng nhu cầu của họ trên mức độ khác nhau. Đồng thời, một số thành viên trong giới khoa học nhận thức được giới hạn của khoa học chính thống, mở rộng chân trời nghiên cứu của họ gồm có cả tôn giáo, có thể tạo điều kiện cho khoa học phát triển một nền khoa học cao độ hợp nhất với tôn giáo, sự hợp nhất có thể dẫn nhân loại đến sự thực, hòa bình, một đời sống thoát khỏi những ràng buộc dại khờ.

Mặt khác, khoa học có thể cố gắng chứng minh điều mà tôn giáo đã tiên đoán trước đây. Trong khi nhân loại không thể chờ đợi câu giải đápchúng ta cần phải có, và câu giải đáp này trở thành tôn giáo. Tuy câu giải đáp chưa được chứng minh, nhưng chúng ta đã chấp nhận nó vào lúc này, trong khi khoa học thì từ từ theo phương pháp thử nghiệm. Hình dung nét đại cương như vậy, thì khoa học là nỗ lực của con người nhằm chứng minh chân lý (hay phi chân lý) của tôn giáo. Theo cách nhìn đó, hai lãnh vực trở nên hòa hợp, nẩy sanh từ nguồn gốc chung, lại một lần hợp nhất.

Theo dòng thời gian, một lần nữa phương pháp khoa học lại đi đến giới hạn sẽ không thể chứng minh được chân lý do tôn giáo đưa ra. Ngày nay một số các khoa học gia hàng đầu, đã nhận thức được như vậy. Bất cứ lúc nào, chân lý cuối cùng, tối hậu do tôn giáo đưa ra cũng ở ngoài tầm hiểu biết của khoa học.

Chúng ta đã nói về khoa học và tôn giáo, từ nguồn gốc đến quá trình phát triển. Bây giờ, hãy nhìn riêng về Phật Giáođi vào đề tài chính của bài thuyết trình này.

...Nhiều người quan niệm đạo đức chỉ là sự chuyên quyền độc đoán của một nhóm người nào đó... nhưng trong khi khoa học tự nó tách khỏi bất cứ một suy xét nào về đạo đứcgiá trị (tiêu chuẩn đạo đức), Phật Giáo nghiên cứu và chỉ dạy vai trò của đạo đức trong tiến trình tự nhiên...



#75
tritanngo99

tritanngo99

    Đại úy

  • Điều hành viên THPT
  • 1644 Bài viết

PHẬT GIÁO NỀN TẢNG CỦA KHOA HỌC
Hòa thượng Prayudh Payutto
Tỳ kheo Thích Tâm Quang dịch

 


III. KHOA HỌC VÀ TÔN GIÁO
CUỘC GẶP GỠ HAY PHÂN LY?

Giống tôn giáo, nhưng ...

NÓI VỀ PHẬT GIÁO, điều trước hết là phải nói về nguồn gốc. Tôi đã nói nguồn gốc tôn giáo là do sợ hãi nguy hiểm, nhưng nguồn gốc của Phật Giáo không phải là như vậy mà là do sộ hãi khổ đau. Xin hãy lưu ý đến sự khác biệt này. Trong phần nói về tôn giáo, tôi có đề cập đến nguy hiểm, nhưng riêng Phật Giáo lại nói về khổ đau với một ý nghĩa rộng lớn. Cụ thể là sự sợ hãi nguy hiểm không những nhằm vào các yếu tố bên ngoài, như lụt lội, động đất, vân vân .. mà khổ đau là tình trạng tinh thần bị căng thẳng, mâu thuẫn.Khổ đau là gì? Khổ đau là trường hợp tinh thần bị căng thẳng, mâu thuẫn, nói ngắn gọn là cái khó khăn nan giải của nhân loại. Đơn giản chúng ta có thể nói khổ đau là khó khăn, vì sự khó khăn là nguyên nhân của tình trạng căng thẳng và nản lòng.

Các tôn giáo khác cũng đi tìm ngồn gốc của nguy hiểm. Theo như người ta biết, bất cú lúc nào, có điều gì xẩy ra trong xã hội loài người thì đều phải có người nào đó tạo nên hay điều khiển. Trong xã hội loài người, con người là người kiểm soát, nhưng thế giới thiên nhiên lại vượt qua sự kiểm soát của con người. Con người vẫn nghĩ rằng có một người nào đó điều khiển muôn việc, cho nên con người đi tìm người nào đó này, và tìm thấy người điều khiển, một hay các vị thần, sức mạnh siêu nhiên, nguồn gốc của mọi thiên tai. Những lực lượng này sinh ra mây, bão, lụt, cháy vân vân...Đó là sự nổi lên của tôn giáo.

Người thuở xưa coi có tình trạng đó là do sự thưởng phạt. Nay muốn tránh khỏi nguy hiểm là phải tìm nguyên nhân gây ra nó. Nhìn vào xã hội loài người, có những nhà lãnh đạo nắm quyền lực, nên họ cũng áp dụng mô hình này cho các thế lực đứng sau các hiện tượng thiên nhiên, do đó cho ra đời thuyết thần linh. Cho nên một số nhà tâm lý hiện đại nói con người tạo ra Thượng Đế theo hình ảnh của mình, ngược lại với các điều dạy của Cơ Đốc giáo cho rằng Thượng Đế tạo ra con người theo hình ảnh của Thượng Đế.

Nhân loại coi những thần thánh đó là nguồn gốc của các nguy hiểm, do đó họ lý luận họ cần phải làm vừa lòng các thần thánh ấy, cũng giống như vừa lòng người lãnh đạo. Kết quả sinh ra nhiều thứ pháp kỹ thuật và các cuộc hành lễ để tỏ bày lòng tôn trọngtôn kính, các lễ hiến tế cúng thần, cầu nguyện vân vân.....

Yếu tố căn bản quyết định những việc xẩy ra trên thế gian, theo như các tôn giáo cổ, là do ý muốn của thần thánh.

Yếu tố ràng buộc nhân loại vào các thần thánh hay sức mạnh siêu nhiên ấy là niềm tin.

Niềm tin vào thần thánh hay các vị thánh thần được biểu hiện qua các lễ hiến tế, cầu nguyện, lễ bái, vân vân...

Cho nên, nơi đây ta có một bức tranh toàn bộ về vị chủ tể các biến cố đó - ý muốn của Thượng Đế; chúng ta thấy sự liên hệ chung của nhân loại - niềm tin, và chúng ta thấy phương pháp tác động - lễ hiến tế, cầu nguyện, vân vân...Đó là hình ảnh phổ biến về vai trò của niềm tin trong hầu hết các tôn giáo.

Bây giờ, hãy nhìn vào các yếu tố liên quan đến Phật Giáo. Như tôi đã nói, Phật Giáo căn cứ vào sự mong muốn thoát khỏi khổ đau. Phương pháp thích hợp nào được thực hành để giải thoát khỏi khổ đau? Muốn như vậy, bạn phải xem khổ đau phát xuất từ đâu. Nguồn gốc của khổ đau ở nơi đâu? Trong khi các tôn giáo khác dạy ngồn gốc của hiểm nguy là ở sức mạnh siêu nhiên, Phật Giáo nói nguyên nhân khổ đau là một tiến trình tự nhiên cần phải hiểu.

Khổ đau có một nguồn gốc hành hoạt tùy theo tiến trình tự nhiên, gọi là nhân và quả. Việc không hiểu tiến trình nhân quả tự nhiênnguyên nhân khổ đau. Phật Giáo đào sâu vào nguồn gốc của khổ đau bằng cách nhìn vào vô minh, sự không hiểu biết về nhân và quả, hay sự ngu si không hiểu Qui Luật Tự Nhiên.

Tới điểm này, chúng ta vào trọng tâm của Phật Giáo. Vừa rồi tôi đã nói, nguồn gốc của các tôn giáo là do ý thức về sự nguy hiểm, nguồn gốc của nguy hiểm là ý muốn của đấng tối cao hay các lực lượng tối cao; nhưng nguồn gốc của Phật Giáo là do ý thức được khổ đau, mà nguồn gốc khổ đau là vô minh (ngu si) không hiểu tiến trình tự nhiên của khổ đau, tức ngu si không hiểu Luật Tự Nhiên.

Bây giờ chúng tôi đặt lại vấn đề. Đặt lại vấn đề ra sao? Khi ngu si không hiểu Qui Luật Tự Nhiênnguyên nhân thì cách sửa chữa là làm ngược lại, đó là kiến thứchiểu biết điều mà chúng ta gọi là trí tuệ.

Trước đây, tôn giáo dựa vào niềm tin vì mối liên hệ giữa người và nguồn gốc nguy hiểm. Phật Giáo thay đổi sự liên hệ của con người này thành trí tuệ. Ở đoạn này, xin nhấn mạnh là chuyển niềm tin thành trí tuệ, và đó là sự khác biệt chủ yếu của Phật Giáo. Theo Phật Giáo, con người phải biết và hiểu luật nhân quả, cùng giải quyết các vấn đề sao cho phù hợp.

Cuối cùng (x) việc tu sửa các yếu tố gây khổ đau là trách nhiệm con người, và trong phạm vi tiềm lực của con người. Do đó đặt tầm quan trọng cho việc giải quyết vấn đề đã chuyển từ ý muốn của sức mạnh siêu nhân thành nỗ lực của con người.

(x) sự ám chỉ tại đây và trong bốn đoạn văn trước đây, là Tứ Diệu Đế: Khổ, nguyên nhân của khổ, diệt khổcon đường dẫn đến diệt khổtrọng tâm của giáo lý Phật Giáo.

Ba điều sau đây rất có ý nghĩa:

1. Hầu hết các tôn giáo đều lo lắng về nguồn gốc nguy hiểm, cho rằng tại thần thánh, nhưng Phật Giáo lại quan tâm đến nguồn gốc của khổ đau và cho rằng do vô minh.

2. Sự ràng buộc vào nguồn gốc đó trong hầu hết các tôn giáothần thánh tức quyền lực siêu nhiên, nhưng trong Phật Giáotrí tuệ.

3. Chủ yếu của hầu hết các tôn giáo cho là do thần thánh hay sức mạnh siêu nhân, nhưng trong Phật Giáo trách nhiệm đặt trong tay con người, nhất là vào hành động của con người.

Nét nổi bật trong Phật Giáo là chuyển niềm tin thành trí tuệ, và đó là một sự thay đổi toàn diện mang tính cách mạng. Loại trí tuệ như thế bắt đầu với sự ham thích muốn biết, tức muốn có kiến thức trước khi đạt đến trí tuệ thông thái, và phải có khát vọng. Nhưng khát vọng có kiến thức này khác với khát vọng của khoa học, và tôi sẽ trình bày sau này.

Một chuyển đổi quan trọng khác trong nét nổi bật của Phật Giáo là chuyển niềm tin vào thần thánh thành nỗ lực của con người. Đây là một trong những nền tảng của Phật Giáo. Dù Phật Giáo lan tràn tới đâu, dù giáo lý có bị bóp méo thế nào đi nữa, nguyên tắc nhấn mạnh vào nỗ lực của con người không bao giờ thay đổi. Chỉ cần nguyên tắc này thay đổi, chúng ta có thể tin tưởng mà nói rằng nguyên tắc đó không phải là Phật Giáo.

Nguyên tắc về nỗ lực của con người được sáng tỏ trong phạm vi Phật GiáoĐịnh Luật về Nghiệp. Người ta có thể hiểu sai Nghiệp, có nhiều hiểu lầm về Nghiệp, ngay trong giới Phật Giáo, nhưng dù điều đó có thể thay đổi thế nào đi nữa, Nghiệp bao giờ cũng liên quan với nỗ lực con người.

Sự phối hợp gắn bó của Phật Giáo với Qui Luật Tự Nhiên, tuyên bố trạng thái độc lập của con người, đặt trí tuệ trước niềm tin, là một sự kiện độc đáo vô song trong lịch sử tôn giáo. Việc này đã làm cho một số các nhà phân tích Tây Phương nghĩ rằng Phật Giáo không phải là một tôn giáo. Sách vở về Phật Giáo của Tây Phương thường nói Phật Giáo không phải là một tôn giáo, có nghĩa không phải là một tôn giáo như một tôn giáo trong văn hóa Tây Phương.

Cho nên chúng tôi có ba nguyên tắc quan trọng:

1. Qui Luật Tự Nhiên;
2. Con người hoàn toàn độc lập;
3. Sự thay thế niềm tin bằng trí tuệ.

Tôn giáo thiên nhiên: hiểu biết thiên nhiên bằng trí tuệ

Bây giờ để làm sáng tỏ vấn đề, chúng tôi dùng chút ít thì giờ nói về vài đặc tính căn bản của Phật Giáo. Trước nhất, chúng tôi đề cập đến một số giáo lý do đích thân Đức Phật chỉ dạy, và bàn rộng hơn về giáo lý này, xem chúng liên quan đến khoa học ra sao.

1. Sự gắn bó với qui luật tự nhiên: Chân lý là Qui Luật Tự Nhiên, tồn tại một cách tự nhiên. Đức Phật là người duy nhất tìm ra chân lý này. Chắc Quý Vị đã nghe các thầy tu tụng kinh Dhammaniyãma trong tang lễ, nhưng đa số nguời không hiểu nghĩa lý của kinh này, đó là chân lý thiên nhiên hiện hữu, là đi?u kiện bình thường. Đức Phật xuất hiện hay không, chân lý vẫn ở đó.

Cái gì là Dhammaniyãma, hay Qui Luật Tự Nhiên là gì? Các thầy tu tụng Uppãdã vã bhikhave tathãgatãnam, anuppãdã vã tathãgatãnam: "Các Đức Phật xuất hiện hay không xuất hiện, chân lý vẫn tự nhiên, không thay đổi, và mọi sự vật duyên hợp đều vô thường, khổ đau và vô ngã"

Vô thường có nghĩa là tất cả sự vật do duyên hợp sanh ra rồi chết đi không ngừng, xuất hiện và mất đi.

Khổ đau ý muốn nói chúng luôn luôn là điều kiện của những xung lực và đối lực, không thể giữ nguyên được sự bất biến.

Vô Ngã có nghĩa chúng không phải là Ngã (Ta), một thực thể nội tại, chúng chỉ là những yếu tố hỗ trợ, không thực chất. Bất cứ chúng ở dạng thức nào chúng cũng đều phải theo sự điều khiển của các yếu tố hỗ trợ (Không có Ngã Sở Hữu). Đó là nguyên tắc của sự phát sinh có điều kiện, giá trị căn bản nhất của chân lý.

Đức Phật đã giác ngộ các chân lý ấy, Ngài đã tuyên bốgiải thích chúng. Do đó bài tụng có nghĩa như thế nào. Nguyên tắc đầu tiên rất quan trọng, và là nguyên tắc căn bản nhất trong Phật Giáo. Phật Giáo coi những qui luật tự nhiên ấy như chân lý căn bản.

2. Sự tương quan và phụ thuộc lẫn nhau của mọi sự: Phật Giáo dạy Lý Nhân Duyên (Qui Luật về Sự Phát Sinh phụ thuộc-Lý Duyên Khởi). Tóm lại, cốt lõi của luật này là:

Imasmim sati idam hoti
Imasmimasati Idamna hoti
Imassuppãdã idam uppajjati
Imassa nidrdhãidam nirujjhati

Câu trên có nghĩa:

'Khi có cái này thì có cái kia
Khi không có cái này thì cái kia cũng không có
Vì lẽ cái này sinh thì cái kia sinh;
Vì cái này diệt thì cái kia cũng diệt.'

Đó là chân lý, một qui luật tự nhiên, được phát triển đầy đủ trong việc ứng dụng thực tế. Nói một cách đơn giản, đó là luật tự nhiên về nhân quả ở mức độ căn bản nhất.

Điều đáng ghi nhớ là Phật Giáo hay dùng từ ngữ nhân quả hơn là ' nguyên nhân và hậu quả'. Nhân quả nói đến mối quan hệ luyến tính và cụ thể. Phật Giáo tin những kết quả không chỉ do nguyên nhân mà còn do nhiều yếu tố phụ thuộc khác. Khi những điều kiện hội đủ, kết quả đến ngay.

Thí dụ, chúng ta trồng một hạt xoài, mầm của cây soài nẩy nở. Cây xoài là quả, nhưng nguyên nhân của cây xoài là gì? Bạn có thể nói hạt giốngnguyên nhân, nhưng nếu chỉ có hạt giống không thôi, cây soài không mọc lên được. Cần nhiều yếu tố khác như đất, nước, dưỡng khí, thời tiết, phân bón vân vân...Chỉ khi nào các yếu tố hội đủ, kết quả sẽ nẩy sinh. Nguyên tắc này giải thích tại sao một số người cảm thấy họ tạo nhiều nhân nhưng không thấy quả mong muốn. Họ nên tự hỏi là họ đã tạo các điều kiện đầy đủ chưa.

Xin nhớ là mối quan hệ nhân quả không hẳn diễn tiến đúng theo tuyến chiều dài. Chúng ta có khuynh hưóng nghĩ rằng sự việc sẽ tuần tự vi tiến cái này rồi đến cái kia - điều này xuất hiện trước, và kết quả phải theo liền sau đó. Nhưng sự việc chưa hẳn là như vậy.

Thí dụ chúng ta có cái bảng đen, tôi lấy phấn viết mấy chữ A, B và C lên bảng. Những chữ này xuất hiện là kết quả. Bây giờ cái gì là nguyên nhân của các chữ ấy xuất hiện trên bảng đen? Thông thường chúng ta có thể trả lời nguyên nhân là người viết. Nếu nhìn vào sự tương quan của các nét phấn trắng, chúng ta có thể trả lời nguyên nhân là phấn. Bất cứ một yếu tố nào ta lấy cũng có thể là nguyên nhân, nhưng chỉ một nguyên nhân không đủ cho kết quả nẩy sinh. Muốn có chữ A trên bảng, phải có sự tụ hội của nhiều yếu tố - người viết, phấn, bảng mầu thích hợp - chỉ một cái bảng chưa đủ, bảng phải có mầu sắc tương phản với phấn - độ ẩm thích hợp, bề mặt không bị quá ẩm - Phải hội đủ mọi yếu tố mới sinh ra kết quả

Giờ đây, sự xuất hiện của chữ A có cần thiết để tất cả các yếu tố phải lần lượt xuất hiện? Chúng ta thấy một số các yếu tố phải có cùng một lúc, là những yếu tố phụ thuộc lẫn nhau ở nhiều phương diện, không nhất thiết phải xuất hiện lần lượt cái này rồi mới đến cái kia. Đó là giáo lý của Phật Giáo về nhân duyên.

3. Nguyên tắc về niềm tin:Tôi vừa nói Phật Giáo đã chuyển tầm quan trọng từ niềm tin thành trí tuệ trong tôn giáo, nay chúng tôi lại nói về niềm tin là làm sao? Điều này, nên hiểu niềm tin vẫn đóng một vai trò quan trọng trong Đạo Phật, nhưng tầm quan trọng có thay đổi.

Trên hết, chúng ta hãy xem niềm tin liên quan ra sao trong Phật Giáo đến sự kiểm chứng qua kinh nghiệm hiện tại. Giáo lý về khía cạnh này được trích dẫn trong Kinh Kalama với đoạn sau đây:

Này các người Kalama,
Đừng tin vì bạn đã nghe thấy như thế.
Đừng tin vì bạn đã biết như thế
Đừng tin vì bạn đã thực hành như thế lâu rồi
Đừng tin vì điều đó được đồn đại
Đừng tin vì điều đó nói trong kinh
Đừng tin vì chỉ dựa vào lý luận, biện luận
Đừng tin vì suy luận, lập luận
Đừng tin vì lý luận
Đừng tin vì điều đó phù hợp với lý thuyết của bạn
Đừng tin vì điều đó có vẻ đáng tin
Đừng tin vì điều đó vị thầy của bạn tin

Giáo lý này khiến người Tây Phương hết sức ngạc nhiên khi lần đầu tiên nghe thấy giáo lý này, giáo lý này là một trong những giáo lý rất đại chúng, vì trong thời gian đó văn hóa Tây Phương mới bước vào ngưỡng cửa khoa học. Ý kiến không nên dễ dàng tin ngay vào một điều gì mà chỉ tin sau khi kiểm chứng là rất phổ biến. Kinh Kalama được khá nhiều người Tây Phương quen thuộc với Đạo Phật biết đến, nhưng người Thái lại ít biết đến.

Trong Kinh Kalama, Đức Phật dạy rằng ta phải biết và hiểu rõ bằng kinh nghiệm những điều nào là những điều nên theo và những điều nào là những điều không nên theo. Hiểu biết điều nào không nên áp dụng và có hại, không đem lợi ích mà đem đau khổ, ta phải từ bỏ. Hiểu biết điều nào đáng kể, hữu ích, đem hạnh phúc, ta nên theo. Đó là vấn đề về kiến thức trong sáng, sự nhận thức trực diện, kinh nghiệm bản thân. Đó là sự chuyển đổi từ niềm tin thành trí tuệ.

Ngoài ra, Đức Phật cũng dạy một số nguyên tắc rất rõ ràng để khảo sát kinh nghiệm bản thân. Ngài nói " Độc lập về niềm tin, độc lập về sự tán thành, độc lập về học hỏi, độc lập về tư duy, độc lập theo lý thuyết của mình, người đó thấy rõ ràng khi tâm tham, khi tâm không tham; khi tâm sân, khi tâm không sân; khi tâm bị ảo tưởng ám ảnh, khi tâm không ảo tưởng ngay trong hiện tại".Đây là kinh nghiệm bản thân đứng đắn, tâm ý của chúng ta tự chúng ta có thể nhận biết rõ ràng ngay trong hiện tại. Đó là nguyên tắc xác minh qua kinh nghiệm bản thân.

4. Tuyên bố độc lập của nhân loại:

Phật Giáo nảy sinh ra trong niềm tin vào Phạm Thiên hiện hữu. Niềm tin này cho rằng Phạm Thiên là người sáng tạo ra thế giới. Phạm Thiên (Thượng Đế) là người tạo mọi sự việc, và nhân loại phải làm lễ hiến tế, lễ cầu nguyện do người ta nghĩ ra để làm vừa lòng Phạm Thiên (Thuợng Đế). Họ rất hậu hĩ trong các cuộc lễ để được thiện cảm của Phạm thiên (Thượng Đế) hầu được ban thưởng. Phạm Thiên Vệ Đà nói rằng Đại Phạm Thiên phân chia nhân loại thành bốn đẳng cấp. Nếu sanh ra trong đẳng cấp nào thì người đó phải mang đẳng cấp đó suốt đời. Không có cách nào để có thể biến đổi tình trạng này, vì đó là những chỉ thị của Phạm Thiên (Thượng Đế).

Khi Thái Tử Tất Đạt Đa, Bồ Tát tức Đức Phật tương lai, đản sanh, điều trước nhất người ta quy cho Ngài về lời tuyên bố về sự độc lập của nhân loại. Quý bạn thấy trong tiểu sử của Đức Phật, khi Ngài thị hiện Ngài đi tượng trưng bẩy bước trên hoa sentuyên bố: "Ta là người vĩ đại nhất trong thiên hạ, Ta là người cao cả nhất trong thiên hạ, Ta là người cao quý nhất trong thiên hạ", Thiên thượng, thiên hạ, duy ngã độc tôn. (Ta nơi đây có nghĩa là con người độc lập chứ không phải cái Ngã sở hữu)

Câu tuyên bố trên đây rất dễ bị hiểu lầm. Người ta có thể hỏi: "Tại sao Thái Tử Tất Đạt Đa lại cao ngạo đến như thế?" Câu này phải được hiểu là Đức Phật tuyên bố sự độc lập của con người. Trong suốt cuộc đời của Ngài Ngài đã dẫn giải những nguyên tắc, tất cả đều nhằm vào tiềm năng của con người để mở mang tâm thiện tối thượng. Ngư?i phát triển toàn bích là người đẹp nhất trên thế gian này. Đức Phật là đài gương của chúng ta, và Ngài là đại biểu của chúng ta trong sự kiện này. Việc đạt Phật Quả của Ngài chứng minh tiềm năng của con người. Với tiềm năng ấy con người không cần đến sự giúp đỡ từ các thế lực bên ngoài. Thay vì cầu cạnh, ỷ lại, con người tin vào chính mình để trở thành Phật, cho nên ngay cả các thần thánh cũng phải tôn kính.

Có nhiều thí dụ trong giáo lý Phật Giáo. Thí dụ như câu sau đây:

Manussabhũtam sambuddham
attadantam samãhitam
devã'pi namassan'ti

Câu trên có nghĩa: "Là một chúng sinh như mọi người Đức Phật đã tự mình tu tập, trở nên toàn bích... Cả đến các thánh thần cũng tôn kính Ngài."

Với nguyên tắc trên, vị thế của con người thay đổi. Thái độ ỷ lại bên ngoài, nương tựa nơi thượng đế, thánh thần, đã bị dứt khóat chối bỏ, con người được dạy hãy quay về và nhìn vào chính mình, nhìn vào khả năng của chính mình để phát triển hầu đi đến thành tựu tốt đẹp nhất. Chẳng cần phải đem số phận mình nương nhờ vào thánh thần hay thượng đế. Nếu nhận thức được tiềm năng của mình, ngay cả các thánh thần cũng phải công nhận sự ưu tú và cũng phải tôn kính mình.

 

Nguyên tắc ấy đưa đến sự tin tưởng hay niềm tin nơi tiềm năng con người có thể phát triển đến mức tối đa. Đức Phật là tấm gương mẫu mực của một con người phát triển toàn bích.

5. Nguyên tắc nượng tựa được căn cứ vào việc thực hành và hành động hợp lý hơn là tùy thuộc vào thế lực bên ngoài.

Nguyên tắc đó được làm sáng tỏ trong Kinh Pháp Cú. Bài kệ bắt đầu với câu "Bahum ve saranam tanti.." " Nhân loại, bị đe dọa bởi nguy cơ.." Điều này nói lên con người trước thời Phật tồn tại như thế nào, chẳng khác gì sự nảy sanh các tôn giáo như đã nói trước đây. Bài kệ tiếp...

Con người, thấy mình bị đe dọa bởi nguy cơ, tìm nơi nương tựathánh thần, miếu mạo, và cây thiêng. Nhưng những thứ trên không phải thục sự là nơi nương tựa. Nương tựa với những thứ ấy, không đem lại an ninh.

Những ai tìm nơi nương tựaĐức Phật, Pháp và Tăng, hiểu biết Tứ Diệu Đế, hiểu các khó khăn và các nguyên nhân gây khó khăn, tự tại trước khó khăn, và áp dụng phương sách dẫn đến giải thoát khỏi khó khăn mới có thể vượt qua hiểm nguy.

Đó là bước ngoặt, không đặt tầm quan trọng vào việc cầu xin thần thánh mà đặt nó vào các hành động có trách nhiệm. Ngay cả một s? Phật Tử, không ý thức nguyên tắc này, nhầm lẫn sùng kính Tam Bảo như điều gì thần thánh giống như các tôn giáo khác.

Tam Bảo bắt đầu với Đức Phật, một tấm gương mẫu mực về con người toàn hảo. Điều này nhắc nhở cho chúng ta về tiềm năng của con người,cũng như khuyến khích chúng ta suy nghĩ sâu xa về trách nhiệm của mình trong việc phát triển tiềm năng đó. Nương tựa nơi Đức Phật là để chúng ta đừng quên và phải nhớ tới Ngài như tấm gương sáng soi đường. Ngay khi nghĩ đến Tam BảoĐức Phật, chúng ta phản ảnh về trách nhiệm dùng trí tuệ để giải quyết những khó khăn của đời sống và mở mang tâm ý cho chính mình.

Khi nghĩ về Pháp, chúng ta nghĩ về việc phát triển tiềm năng phải được thực thi bằng những phương tiện phù hợp với Qui Luật Tự Nhiên, hành hoạt theo nhân duyên.

Khi nghĩ đến Tăng (Già), chúng ta nghĩ đến những người đã sử dụng Giáo Pháp thành thạo, phát triển và nhận thức thực sự tiềm năng của mình. Các vị này sống cuộc đời gương mẫu, đạt chân lý, nhắc nhở, giúp chúng ta tu tập đúng cách hầu bảo đảm tư cách của mình.

Trên đây là Ba Nơi Nương Tựa. Khi tin tưởng và có niềm tin vào ba nơi nương tựa ấy, chúng ta phải cố gắng giải quyết mọi vấn đề như những người khôn ngoan sáng suốt. Giáo lý ấy bắt chúng ta dùng trí tuệ. Phương cách giải quyết khó khăn nhờ trí tuệ là:

(1) Khổ: Chúng ta bắt đầu với sự công nhận là có khổ

(2) Tập (Nguyên Nhân của Khổ - tham áivô minh): Chúng ta tìm nguyên nhân của vấn đề đó.

(3) Diệt : Chúng ta nhắm vào mục tiêu (Niết Bàn) diệt khổ

(4) Đạo: (Con đường chấm dứt Khổ - Niết Bàn ): Chúng ta tu tập theo mục tiêu ấy (x).

Đó là nguyên tắc giải quyết khó khăn nhờ trí tuệnỗ lực của con người.

(x) Chúng là Tứ Diệu Đế, trọng tâm của Phật Giáo cô đọng tất cả lời dạy của Đức Phật. Nói một cách đơn giản chúng là:

1. Nguyên tắc chịu khổ đau
2. Định luật về nguyên nhân của khổ đau
3. Định luật về chấm dứt khổ đau
4. Kế hoạch hay con đường dẫn đến chấm dứt khổ đau.

6. Chỉ dạy chân lýlợi ích. Có nhiều loại chân lý khác nhau, nhưng một số không hữu ích, không liên quan tới việc giải quyết các khó khăn của đời sống. Đức Phật không dạy chân lý như thế và cũng không nghiên cứu các chân lý vô bổ này. Ngài tập trung vào những chân lý đem lợi ích thực tiễn. Nguyên tắc trên đây được minh họa trong việc so sánh các lá cây trong lúc Ngài ở trong rừng Sĩsapã.

Vào lúc đó Ngài đang quây quần với các thầy tu. Một ngày nọ, Ngài cầm một nắm lá cây trong tay và hỏi các thầy: "Này các thầy, lá trong tay Như Lai nhiều hay lá trên các cây kia nhiều?" Câu hỏi quá dễ dàng, các thầy liền trả lời. Lá trong tay Như Lai ít và lá trên cây nhiều".

Đức Phật liền nới: "Cũng giống vậy đó về những gì mà ta dạy cho các thầy. Có rất nhiều chân lý mà ta biết, những chân lý này cũng nhiều như lá cây trong rừng mà ta không dạy cho các thầy. Ta chỉ dạy chân lý cho các thầy giống như số lá cầm trong tay mà thôi. Tại sao ta không dạy cho các thầy những chân lý nhiều như lá cây trong rừng? Vì chúng không đưa đến trí tuệ tối thượng, đến sự hiểu biết thực tướng của sự vật, hay chỉnh đốn được vấn đề cho đứng đắnthoát khỏi khổ đau. Chúng không dẫn đến việc đạt được mục tiêu, Niết Bàn."

Ngài nói Ngài chỉ dạy những điều mà chính Ngài đã kinh nghiệm và vì những điều này rất hữu ích dẫn đến giải quyết mọi vấn đề, đến đời sống đạo đức. Nói tóm lại những điều này dẫn đến thoát khỏi khổ đau.

Một so sánh quan trọng khác được Ngài nói đến vào dịp khi trả lời những câu hỏi về triết lý cao siêu. Những câu hỏi mà khoa học đang còn vật lộn như Vũ Trụ này hữu hạn hay không hữu hạn? Vũ trụ có từ bao giờ? Kinh điển có ghi mười xấp các câu hỏi triết lý đã có từ thời trước Đức Phật. Một thầy chú ý đến những câu hỏi đó liền đem hỏi Đức Phật. Đức Phật đã không trả lời câu hỏi mà kể một câu chuyện sau:

Một người bị một mũi tên độc. Mũi tên vẫn cắm trong người hắn, và thân quyến vội vã chạy kiếm lương y. Trong khi vị luơng y sửa soạn rút mũi tên ra thì người bị thương nói: Hãy khoan, trước khi rút mũi tên ra,ông hãy cho tôi biết ai là người đã bắn tôi? Người đó sống ở đâu? thuộc đẳng cấp nào? Mũi tên thuộc loại nào? Cung hay nỏ? Mũi tên làm bằng gì? Cung làm bằng gì? Dây cung làm bằng gì? Loại lông chim gì được gắn vào đuôi mũi tên? Nếu không được trả lời về các câu hỏi trên tôi không để ông rút mũi tên ra."

Rõ ràng người đó sẽ chết trước khi được nghe trả lời những câu hỏi đó. Người đó không những không tìm được câu trả lời mong muốn mà đã chết một cách vô ích. Đường lối thích hợp ở đây là gì? Trước tiên là phải rút ngay mũi tên ra. Rồi nếu muốn có câu trả lời thì sẽ tìm sau.

Cũng như vậy, điều Đức Phật muốn dạy là cái khổ đau của con ngườiphương cách để thoát khỏi khổ đau. Những câu hỏi triết lý không thích đáng thì không cần thiết. Dù cho Đức Phậttrả lời thì cũng không thể kiểm chứng được. Ngài dạy những điều phải làm ngay, đừng phí phạm thời giờ vào sự theo đuổi hão huyềntranh luận vô ích. Cho nên Đức Phật không trả lời những câu hỏi như vậy, chỉ dạy những điều mang lợi lạc thực tiễn.

Đây là một số đặc tính thông thuờng trong Đạo Phật. Khi nghe thấy những điều này, chớ nên vội vã kết luận về sự so sánh trong Phật Giáotương tự hoặc ngược lại khác với khoa học. Có thể có một số điểm hình như rất tương đồng, nhưng trong tương đồng ấy, vẫn có khác biệt.

Thiện và ác

Như tôi dã trình bày, hầu hết các tôn giáo nhìn những biến chuyển trên thế giới là do hành động của thánh thần hay lực lượng siêu nhiên. Nếu nhân loại không muốn những bất hạnh này, mong muốn được tưởng thưởng, thì hãy để thánh thần chứng kiến một số dạng thức sùng báitôn kính.

Việc đó không chỉ áp dụng cho các biến cố thiên nhiên bên ngoài. Ngay cả đến đời sống cá nhân cũng chịu sự kiểm soát của thánh thần. Thánh thần, Thượng Đế là Đấng Tạo Hóa của Vũ Trụ, tạo tất cả hạnh phúc và khổ đau. Đấng Tạo Hóa giám sát các hành vi của con người để xác định xem điều đó có làm Ngài hài lòng hay không, và con người luôn luôn phải cảnh giác đề phòng để tránh những hành động có thể làm mất lòng Thượng Đế.

Theo tiêu chuẩn này, cách cư xử của nhân loại được chia thành hai loại: những hành động làm vừa lòng thánh thần (Thượng Đế), được thưởng gọi là "thiện"; và những hành động không làm vừa lòng thánh thần, bị phạt gọi là "ác". Đôi khi những đặc tính này được coi như chỉ thị của thánh thần. Bất cứ điều gì được chấp thuận bởi thánh thần là "thiện", bất cứ điều gì bị thánh thần cấm đoán là "ác". Các tu sĩ, đại diện cho tôn giáo là người trung gian báo cho nhân loại biết những hành động nào là thiện và ác theo tiêu chuẩn đặt ra bởi thánh thần. Những tiêu chuẩn phân định thiện ác trở thành tiêu chuẩn 'đạo đức' hay 'luân lý'.

Luân lý hay đạo đức là phần rất quan trọng của một tôn giáo. Bạn có thể nói đó là cốt lõi của tôn giáo. Luân lý của người Tây Phương tự tiến triển như tôi đã trình bày trên.

Khoa học từ lúc tách khỏi tôn giáo, chỉ chú trọng đến thế giới vật chất bên ngoài và không mảy may lưu ý đến tính cách trừu tượng của sự vật. Khoa học không quan tâm gì đến luân lý hay đạo đức, coi như thuộc phạm vi lo lắng cho thánh thần, không có cơ sở thực tế, và bỏ mặc chúng. Dân chúng ở các quốc gia Tây Phuơng hay các quốc gia kỹ thuật phát triển, đều bị lôi cuốn bởi những tiến bộ của khoa học. Hầu như, những giáo lý về thần thánh và các lực lượng siêu nhiên coi như vô căn cứ. Cho nên họ xa rời tôn giáo. Luân lýđạo đức giờ đây không còn có ý nghĩa. Khi Thuợng Đế không còn quan trọng, luân lý hay đạo đức, bộ luật của Thượng Đế cũng không còn quan trọng nữa. Ngày nay nhiều người ngay cả trong giới khoa học coi đạo đức chỉ là mệnh lệnh độc đoán của một nhóm người như các thầy tu hay các đại diện tôn giáo, thiết lập để duy trì trật tự xã hội, ngoài ra không có thực chất tý nào cả.

Những ngành khoa học nghiên cứu sự phát triển văn minh nhân loại, nhất là về xã hội học, và một số ngành về nhân chủng học, thấy sự thành công của khoa học tự nhiên, cố gắng phát triển bằng cách nghiên cứu tuơng tự, sử dụng nguyên tắc và phương pháp như khoa học tự nhiên. Xã hội học có khuynh hướng coi giá trị đạo đức hay luân lý không có nền móng khoa học. Ngành này cố tránh những đề tài đạo đức để chứng tỏ chính mình cũng là khoa học thuần túy không có hệ thống giá trị. Ngay cả khi nghiên cứu về vấn đề đạo đức, nó cũng coi vấn đề này là những con số có thể đo đếm được về các hành vi xã hội.

Khoa học vật lý, khoa học xã hội, và dân chúng trong thời đại tiên tiến, thông thường coi đạo đức chỉ là những sáng tạo thuần túytính cách quy ước. Nhận định này không đủ khả năng để phân biệt đạo đức với những biểu hiện thông thường, nó còn đi sai hướng dù cố gắng tránh những điều tin tưởng sai lầm, nhưng cuối cùng vẫn bị lạc lối càng xa vời chân lý.

Giờ đây xin quay lại với chủ đề Phật Giáo. Về đạo đức, cả khoa học và Phật Giáo đều khác biệt với đại bộ phận các tôn giáo. Trong khi khoa học tự cắt đứt hẳn không dính líu gì đến tôn giáo, không mảy may chú trọng đến đạo đức hay giá trị của đạo đức thì Phật Giáo lại chú tâm vào việc nghiên cứu và giảng dạy vai trò của đạo đức trong tiến trình thiên nhiên.

Trong khi hầu hết các tôn giáo nhìn vào các biến chuyển thiên nhiên, cả bên trong lẫn bên ngoài con người, cho rằng tất cả đều do thánh thần chỉ huy thì Phật Giáo nhìn những biến chuyển đó là thuờng tình và cho là do tiến trình tự nhiên, bình thường của nguyên nhân và các điều kiện. Đối với con người và các điều kiện trừu tượng, hay các giá trị, các qui luật này cũng được áp dụng như đối với sự vận hành vật chất của thiên nhiên. Chúng là một phần của dòng chuyển động chứa nguyên nhân và các điều kiện, vận hành hoàn toàn theo qui luật tự nhiên. Tình trạng khác biệt về chất lượng được quyết định bởi sự thay đổi của các yếu tố trong dòng chảy ấy.

Để dễ hiểu về những tiến trình trên, Phật Giáo chia định luật thiên nhiên thành năm loại:

1. Utuniyãma (luật vật lý): Đề cập đến những biến chuyển trong thế giới tự nhiên, tức môi trường vật chất.

2. Bijaniyãma (luật sinh học): nói về động vậtthực vật, đặc biệt về tính di truyền.

3. Cittaniyãma (luật tâm linh): nói về hoạt động của tâm và sự suy nghĩ.

4. Kammaniyãma (nghiệp luật hay luật luân lý): nói về nhân cách, đặc biệt về ý định và các hành động do ý định mà có.

5. Dhammanayãma (luật nhân quả chung): nói về mối quan hệ và sự phụ thuộc lẫn nhau của mọi sự, biết trạng thái - điều kiện của mọi sự.

Bằng sự phân chia thành năm loại của định luật thiên nhiên, chúng ta thấy khoa học tin hoàn toàn vào luật nhân quả (Dhammanayãna), nhưng bị hạn chế trong lãnh vực luật vật lý (Utinitãma), và luật sinh học (Bijaniyama). Nói một cách thực tiễn, Phật Giáo nhấn mạnh nghiệp luật (luật hành động đạo đức - giới luật) dù rằng có một nhánh của Phật Giáo, Vi Diệu Pháp (x), nhấn mạnh việc nghiên cứu luật tâm linh (Cittaniyãma) liên quan đến luật về nghiệp và nhân quả.

(x) Vi Diệu Pháp hay Chân Lý Tối Thượng là Tạng Thứ Ba trong Tam Tạng Kinh Điển Phật Giáo. Vi Diệu Pháp trích yếu Giáo Lý Phật Giáo trong một thuật ngữ thuần khiết phân tích, vô tư.

Nghiệp Luật - Luân lý khoa học

Không hiểu rõ sự thực nếu không hiểu rõ luật thiên nhiên, sự tương quan phụ thuộc lẫn nhau và tính đồng nhất của chúng. Sự hiểu biết trên gồm có yếu tố con người, nhân tố tinh thần và các giá trị trong đó của những nguời nghiên cứu các định luật ấy. Các khoa học gia nghiên cứu luật tự nhiên, nhưng lại không hiểu chính mình, những người nghiên cứu định luật ấy, nên họ sẽ chẳng bao giờ có thể nhìn thấy sự thật- ngay cả về khoa học vật lý.

Về căn bản, con người sống trong thế giới tự nhiên trên bình diện vật chất, nhưng bên trong thế giới vật chất này là thế giới tinh thần. Trong phạm vi của tâm thì con người đang sống trong thế giới người, và thế giới người này có ý nghĩa quan trọng sống còn, ảnh hưởng của thế giới người trên cuộc sống của chúng ta còn rõ ràng hơn ảnh hưởng của môi trường tự nhiên.

Trong đời sống hàng ngày, tư tưởng, nhân cách và hành động, sự giao tiếp và truyền thống cùng những cơ sở xã hội của chúng ta hoàn toàn là sản phẩm từ những hành động có chủ tâm của con người, mà Phật Giáo gọi là Nghiệp. Ý định là khả năng duy nhất khiến con người tiến tới ngày nay. Thế giới con người chính là thế giới của ý định, đi theo chỉ dẫn của ý định. Trong Phật Giáo có câu: Thế giới bị Nghiệp tác động. Để hiểu thế giới con người, tức hoàn cảnh con người, việc hiểu Qui Luật Tự Nhiên tức Nghiệp Luật là rất cần thiết.

Ý định, nghiệp, nhân cách, đạo đức, đặc tính trừu tượng, giá trị, bản tính, tức tâm con người- tất cả hoàn toàn bẩm sinh. Chúng hiện hữu theo các Qui Luật Tự Nhiên, không theo sự dìu dắt của thánh thần. Cũng chẳng phải ngẫu nhiên mà chúng có. Chúng là những tiến trình tự nhiên nằm trong khả năng con người nhằm hiểu biết và phát triển.

Xin ghi nhậnPhật Giáo phân biệt Nghiệp Luật và Luật về tâm linh. Điều này cho thấy tâm và ý không phải là một, và có thể nghiên cứu như hai sự việc riêng rẽ. Tuy nhiên hai sự việc có thật này lại hết sức gắn bó khắng khít với nhau. Đơn giản giống như một người lái chiếc thuyền máy. Tâm giống như con thuyền và máy của nó, trong khi ý là người lái, người lái tự quyết sẽ đi đâu và sẽ phải làm gì.

Gần như là một biến chuyển thiên nhiên tương tự có thể nảy sinh từ các định luật khác nhau trong những tình trạng khác nhau, trong khi một số biến chuyển lại là sản phẩm của hai hoặc nhiều định luật tự nhiên vận hành phối hợp. Một người bị chảy nước mắt có thể do khói (luật vật lý) vì quá vui hay quá buồn (luật tâm linh) cũng có thể do kết quả về các hành động ở quá khứ (nghiệp luật). Nhức đầu có thể do bệnh (luật sinh học), cũng có thể do không khí ngột ngạt, phòng quá nóng (luật vật lý), hay cũng có thể do phiền muộnlo lắng (nghiệp luật).

Vấn đề tự do ý chí

Khi người Phương Tây bắt đầu nghiên cứu về nghiệp hay ý, họ thường bối rối trước vấn đề tự do ý chí. Có tự do ý chí không? Thực ra không có tự do ý chí trong nghĩa 'tự do tuyệt đối', vì ý định chỉ là một trong muôn ngàn nguyên nhân quan hệ lẫn nhau trong tiến trình nhân quả. Tuy nhiên, ý chí có thể coi như tự do một cách tương đối. Chúng ta có thể nói 'tương đối tự do' vì thực ra nó chỉ là một trong các nhân tố trong toàn bộ tiến trình tự nhiên. Trong đạo Phật điều này gọi là purisakãra. (manliness - nhân tính). Mọi người đều có khả năng khai triển tư duy và ý đồ của mình, đúng ra là việc này trở thành nhân tố chủ mưu trong tiến trình nguyên nhânhậu quả, hay Nghiệp, do đó mà chúng ta nói mỗi cá nhân phải chịu trách nhiệm.

Hiểu nhầm, hay thiếu hiểu biết trong sự liên quan đến vấn đề tự do ý chí, xuất phát từ một số quan niệm sai rất sâu xa, đặc biệt là về cái "ta". Quan niệm này gây ra rất nhiều bối rối khi ta nhìn vào thực tại như là điều kiện có thật, nhưng bị mắc vào lối suy nghĩ theo thói quen bám víu ngay vào quan niệm. Hai quan niệm bất đồng sâu sắc. Theo thói quen người ta nhận thức có kẻ hành động và có kẻ nhận kết quả. Trong khi kì thực chỉ có sự cảm thấy, nhưng do nhận thức nên thấy có người cảm thấy. (Trong sách có câu: Có sự chứng nghiệm của cảm thấy, nhưng không có người cảm thấy). Lý do có sự bối rối này là sự không hiểu biết đặc tính của vô ngã.

Phật Giáo không đơn giản ngừng tại tự do ý chí, mà cố gắng đạt đến tình trạng ý được tự do về ý chí, vượt lên sức mạnh của ý chí, sự siêu việt này chỉ có thể đạt được nhờ sự phát triển đầy đủ tiềm năng của con người qua trí tuệ.

Cũng nên lưu ý rằng trong tiến trình phát triển con người, lãnh vực tâm ý và trí tuệ khác nhau. Trí tuệ đuợc hoàn toàn mở mang thì giải thoát khỏi tâm ý. Cho nên chúng ta có tâm với ý định, và tâm với trí tuệ. Tuy nhiên, đó là mối bận tâm thực tiễn, một đề tài rộng lớn chúng ta sẽ nói đến trong một dịp khác sau này.

Đơn giản tôi chỉ muốn trình bày việc đạt được kiến thức hoàn hảo, tức sự thật chân lý, phải xuất phát từ sự hiểu biết về con ngườivị trí của họ trong trật tự tự nhiên, kể cả những điều kiện cùng giá trị trừu tượng mà họ có.



#76
tritanngo99

tritanngo99

    Đại úy

  • Điều hành viên THPT
  • 1644 Bài viết

PHẬT GIÁO NỀN TẢNG CỦA KHOA HỌC
Hòa thượng Prayudh Payutto
Tỳ kheo Thích Tâm Quang dịch



IV. NIỀM TIN TRONG KHOA HỌC VÀ ĐẠO PHẬT

Vai trò của niềm tin

BÂY GIỜ CHÚNG TA HÃY đem so sánh một số đặc tính liên quan đến Đạo Phật, Khoa học, và các tôn giáo khác, bắt đầu với niềm tin.

Hầu hết các tôn giáo dùng cảm xúc như một năng lực để đạt được mục tiêu. Cảm xúc là một nguồn cảm hứng khơi gợi niềm tin và lòng tôn kính giáo lý, và những cảm xúc, đặc biệt những cảm xúc tạo niềm tin là một phần thiết yếu của đa số tôn giáo. Cảm xúc cũng là cái duy trì niềm tin, lý do đó rất quan trọng nên muốn bảo đảm thì tình trạng cảm xúc đó phải được giữ vững. Nói một cách khác, vì niềm tin rất thiết yếu cho các tôn giáo, cảm xúc luôn được khuyến khích.

Trong khi niềm tin là một sức mạnh tuyệt vời trong hầu hết các tôn giáo thì Phật Giáo lại nhấn mạnh trí tuệ, coi niềm tin chỉ quan trọng trong những bước đầu. Dầu vậy niềm tin phải được sử dụng thận trọng, vì trí tuệ được coi là nhân tố quan trọng bậc nhất để đạt mục tiêu của Đạo Phật.

Tuy nhiên, niềm tin vẫn đưọc coi trọng trong giáo lý Đạo Phật nhưng trong một vai trò khác với tầm quan trọng khác. Cũng có những yếu tố niềm tin trong nghiên cứu khoa học mà ở đây nó có vai trò quyết định trong sự tiến bộ về nghiên cứuđiều tra của khoa học.

Để thấu hiểu niềm tin rõ ràng, việc lý giải thành nhiều loại rất có lợi. Nói chung, niềm tin có thể chia thành hai loại chính:

Loại thứ nhất là loại ngăn trở trí tuệ. Loại này dựa vào kích động, thâm chí ép buộc, và niềm tin như vậy hẳn phải là hoàn toàn mù quáng. Cấm hẳn việc nghi ngờ giáo lý. Chỉ được phép mù quáng phục tùng. Niềm tin theo loại thứ nhất này không có chỗ cho trí tuệ phát triển.

Niềm tin của đa số các tôn giáo đều thuộc loại trên. Phải có niềm tin và phải phục tùng. Tôn giáo nói sao thì cứ việc theo không được hỏi. Nét đặc thù này của tôn giáo gọi là 'tín điều', thứ chủ thuyết không thể nghi ngờ được, có đặc điểmtrung thành triệt để bất chấp lý trí. Nhưng Phật Giáo là một tôn giáo không bị tín điều.

Loại niềm tin thứ hai là con đường tới trí tuệ. Loại này kích thích tính tò mò; khích lệ khởi sự việc học tập. Trên thế giới này có quá nhiều điều cần phải biết. Không có niềm tin, chúng ta không biết phải bắt đầu từ điểm nào, đường hướng nào phải theo để học tập, nhưng khi một người có niềm tin, đề tài hay giáo lý sẽ cho điểm khởi thủy. Niềm tin thức tỉnh sự chú ý và khích lệ chúng ta tiến tới đề mục đã quan tâm. Tin tưởng vào con người, đặc biệt,sẽ dẫn đến việc tiếp xúchọc hỏi nơi người khác. Chẳng hạn có niềm tin vào đoàn thể tăng già, khích lệ chúng ta tới gần các thầy, học hỏi nơi các thầy, và thông suốt được giáo lý.

Điển hình cho loại niềm tin này là chuyện về cuộc đời Ngài Xá Lợi Phất (x). Ngài lưu ý đến việc học hỏi giáo lý của Đức Phật khi nhìn thấy Thầy A Nhã Kiều Trần Như đi khất thực. Ngài Xá Lợi Phật cảm thấy bị ấn tượng bởi cách đi đứng của nhà Sư nói lên đức tính đặc biệt, kiến thức đặc biệt, tri thức đặc biệt. Muốn tìm hiểu đức tính đặc biệt ấy là gì, Ngài tiến đến gặp A Nhã kiều Trần Như và hỏi về giáo lý. Trên đây là một thí dụ về loại niềm tin thứ hai.

(x) Ngài Xá Lợi Phật, một trong những đại đệ tử của Đức Phật, gặp Thầy A Nhã Kiều Trần Như đi khất thực, ấn tượng bởi dáng dấp của vị thầy này nên đã đến gặp và hỏi về giáo lý. Giáo lý ngắn gọn mà Ngài nhận được khiến Ngài không còn ngờ vực gì sự trung thực về giáo lý của Đức Phật, và đã trở thành một tỳ kheo, một nhà sư Phật Giáo.

Cho nên loại niềm tin này, hay cảm hứng là một ảnh hưởng tích cực, một động cơ khích lệ cho việc học tập. Niềm tin này cho chúng ta điểm trọng tâm của việc học tập. Dù niềm tin này theo bất cứ hướng nào, nghị lực của chúng ta vẫn được thúc đẩy thích ứng. Thí dụ, một khoa học gia có niềm tin rằng giả thuyết đặc biệt của mình có thể đúng, sẽ hướng sự tìm tòi của mình theo chiều huớng đó, không bị xao lãng bởi những dữ kiện không thích đáng khác.

Hai loại niềm tin trên đây phải được phân biệt rõ ràng. Loại niềm tin hoạt động trong Đạo Phật là loại dẫn đến trí tuệ, nói cho đúng là thứ yếu đối với trí tuệ. Niềm tin này thấy cả trong Phật Giáo lẫn khoa học.

Loại niềm tin này gồm ba chức năng quan trọng liên quan đến trí tuệ là:

1. Tạo mối quan tâmđộng cơ thúc đẩy để tiến hành học tập.
2. Cung cấp nghị lực cần thiết nhằm theo đuổi việc học tập.
3. Đưa ra phương hướng, tức là trọng tâm cho nghị lực ấy.

Ngoài những chức năng trên, niềm tin được định hướng đúng cách có một số các đặc tính được nhận thấy trong hệ thống tu tập của người Phật Tử.:

Mục tiêu của Phật Giáo là gì? Mục tiêu của Phật Giáogiải thoát, siêu việt, hay, nói theo ngôn ngữ đương đại, sự tự do. Phật Giáo muốn con người được tự do, vượt khỏi ô trược và khổ đau.

Làm sao có thể đạt được sự tự do này? Tự do đạt được nhờ trí tuệ, hiểu được chân lý, hay luật thiên nhiên. Chân lý đó có thể đạt được như nhau dù là Vị Đạo Sư hay đệ tử của Ngài và kiến thức của các đệ tử hoàn toàn độc lập. Có một lần, Đức Phật hỏi Ngài Xá Lợi Phất: "Thầy có tin những gì ta giảng cho Thầy nghe không?" Xá Lợi Phất trả lời: "Thưa Vâng, đệ tử nhận thấy điều đó như vậy" Đức Phật hỏi tiếp: "Có phải Thầy nói như vậy chỉ vì niềm tin nơi ta phải không?" Không, đệ tử trả lời đồng ý không phải chỉ vì Ngài vào Đấng Thiêng Liêng, mà chính bản thân đệ tử thấy đúng là như thế".

Đây là một nguyên lý nữa trong Phật Giáo. Đức Phật không muốn các đệ tử của Ngài tin Ngài một cách đơn giản hay níu chặt lấy Ngài. Ngài vạch rõ sự thiếu sót của niềm tin, thậm chí niềm tin vào người khác vì Ngài muốn con người phải được hoàn toàn tự do. Giải thoát, hay tự do, mục tiêu của Phật Giáo đạt được bằng trí tuệ, bằng kiến thức hiểu biết sự thật.

Nhưng làm thế nào để trí tuệ phát sinh? Với những người biết suy nghĩ, những người mà ta gọi là biết nhận xét khôn ngoan (x), không cần phải dựa vào niềm tin, nhưng đa số phải sử dụng ni?m tin làm bàn đạp hay điểm khởi đầu.

(x) sự lưu ýphương pháp, sự nhận xét khôn ngoan, sự phản chiếu để phê phán.

Những điều kiện này ràng buộc giống như mắt xích trong dây xích. Muốn đạt giải thoát, cần thiết phải phát triển trí tuệ. Trí tuệđiều kiện thiết yếu biến mục tiêu thành hiện thực nhưng lại quay về tùy thuộc vào niềm tin. Điều đó cho chúng ta ba giai đoạn:

Niềm tin -- Trí Tuệ -- Giải thoát

Niềm tin là người khởi xướng con đường đi tới chân lý. Rồi dẫn đến trí tuệ, và tiếp theo dẫn đến gi?i thoát. Mô hình điều kiện này rõ rànghạn chế bớt niềm tin trong Phật Giáo. Vì niềm tin liên quan đến cả trí tuệ lẫn giải thoát nên có hai đặc tính sau:

1. Niềm tin dẫn đến trí tuệ
2. Niềm tin đi đôi với trí tuệ dẫn đến giải thoát.

Niềm tin trong Phật Giáo không cấm đoán hỏi han thắc mắc hay nghi ngờ, cũng không đòi hỏi phải tin hay không được thắc mắc . Phật Giáo và khoa học cả hai đều có niềm tin như vậy; cả hai đều dùng niềm tin như bàn đạp trên con đường hiểu biết sự thật. Bây giờ câu hỏi được nêu lên, loại niềm tin nào là loại niềm tin dẫn đến trí tuệ?

Trong bối cảnh thảo luận hôm nay, chúng ta có thể nói niềm tin dẫn đến trí tuệniềm tin vũ trụ này, hay theo qui luật tự nhiên vận hành theo định luật bất biến và không thay đổi. Đó là niềm tin vào Qui Luật Tự Nhiên, hay niềm tin Thiên Nhiên có những qui luật mà con người có thể hiểu được.

Niềm tin đó là sức đẩy dẫn đến việc tìm chân lý. vì niềm tin chính nó không thể dẫn thẳng đến chân lý, nó chỉ ứng dụng cho việc phát triển trí tuệ sau này. Trong giai đoạn này niềm tin của Phật Giáoniềm tin của khoa học coi như rất tuơng đồng. Cả hai tin vào qui luật tự nhiên, và cả hai phấn đấu để biết sự thật của các qui luật này qua trí tuệ. Tuy nhiên, sự tương đồng chấm dứt ngay tại đây. Từ điểm này, niềm tin của Phật Giáoniềm tin của khoa học đi theo con đường khác nhau.

Sự khác biệt giữa niềm tin trong Phật Giáo và khoa học

Chúng ta đã nói nguồn gốc của tôn giáo và khoa học là sự nhận thức khó khăn của đời sống, cái nguy hiểm đe dọa trong thế giới thiên nhiên. Trong việc nghiên cứu để đáp ứng với vấn đề, con người băn khoăn và lo lắng nhìn vào môi trường thiên nhiên. Hai cảm nghĩ này làm cả hai Phật Giáo và Khoa Học ham muốn tìm ra con đường thoát hiểm, và muốn biết sự thật về thiên nhiên. Từ một nguồn gốc chung, tôn giáo và khoa học tách ra đi theo đường lối của mình.

Ngoài phần khác biệt, cả hai đều có một sự tương đồng quan trọng, đó là khuynh hướng nhìn ra bên ngoài, như đã nói trước đây ở Chương Hai. Trên phương diện này, chúng ta thấy khoa học đặt trọng tâm vào việc nghiên cứu hiện tượng tự nhiên bên ngoài. Khoa học không bao gồm nhân loại trong khung cảnh vũ trụ. Nói một cách khác, khoa học không coi vũ trụ bao gồm cả nhân loại, và không nhìn nhân loạitính cách bao trùm tất cả vũ trụ.

Nhìn thiên nhiên cách đó, Khoa Học chỉ có một đối tượng về niềm tin, đó là vũ trụ vật chất- niềm tinvũ trụ đặt ra luật. Nói tóm lại chúng ta có thể gọi đó là 'niềm tin vào thiên nhiên'.

Nhưng mục tiêu của Phật Giáogiải quyết vấn đề khổ đau cho nhân loại, phát xuất từ những điều kiện bên trong cũng như bên ngoài, nhấn mạnh vào thế giới hành vi của con người. Đồng thời, Phật Giáo thấy tiến trình đó là tiến trình tự nhiên. Vì lý do đó, Phật Giáo giống như khoa học, đặt niềm tin vào thiên nhiên, nhưng niềm tin này cũng gồm cả con người, có nghĩa là con người là một phần của thiên nhiên và cũng bao gồm tất cả thiên nhiên nơi con người, trong đó con người bị chi phối bởi luật thiên nhiên.

Niềm tin của khoa học chỉ có một đối tượng, và niềm tin của Phật Giáo có hai đối tượng là:

1. Thiên Nhiên
2. Nhân Loại

Trong một khía cạnh, hai loại niềm tin này là một, cùng là một thứ, vì cả hai đều tin vào thiên nhiên, loại thứ nhất thật rõ ràng. Nhưng loại này không bao gồm toàn bộ khung cảnh, chỉ bao gồm môi trường bên ngoài. Trong Phật Giáo, nhân loại được coi như một phần của thiên nhiên. Các bộ phận cơ thể con người cũng thiên nhiên như môi trường bên ngoài.

Hơn thế nữa, con người có một tính chất khác biệt hẳn với những biểu hiện bên ngoài của thiên nhiên và cũng phân biệt nhân loại khác với thế giới chung quanh mình. Đó là đặc tính riêng biệt của con người. Chúng ta có thể nói là "đặc tính của loài người ". Tính chất đặc biệt này là tinh thần của nhân loại, những giá trị - tiêu chuẩn đạo đức.

Trong Phật Giáo chúng ta tin rằng đặc tính trừu tượng của con người cũng chỉ là một hiện tưọng tự nhiên, cũng phải chịu ảnh hưởng của luật nhân quả tự nhiên, và cũng nằm trong chân lý thiên nhiên. Để biết và hiểu rõ tự nhiên, phải thông suốt tự nhiên cả hai mặt tinh thần lẫn vật chất.

Nên nhớ rằng muốn biết và hiểu rõ tự nhiên, con người phải hiểu những điều họ đang nghiên cứu. Những đức tính tinh thần ấy như niềm tin, sự khao khát muốn biết, là những đặc tính trừu tượng, những điều mà chúng tôi gọi là 'giá trị'. Chúng đi vào địa hạt trừu tượng của con người, và với cương vị như thế, chúng nằm trong lãnh vực nghiên cứuhọc hỏi của chúng ta.

Hơn nữa, ở mức độ tột cùng đạt được chân lý cũng là đạt được lòng thiện cao nhất. Cuối cùng, chân lýđời sống tốt đẹp nhất, hay chân lý tối thượng và tâm thiện tối thượng cuối cùng chỉ là một, cùng như nhau. Nếu những đặc tính của con người không được nghiên cứu, không có kiến thức hay sự hiểu biết nào về thiên nhiên, chân lý sẽ bị bóp méo và không đầy đủ. Điều này sẽ không có khả năng dẫn đến sự hiểu biết thấu triệt sự thật chân lý.

Mặc dù Khoa Học tin tưởng vào thiên nhiên, cố gắng tìm hiểu sự thật về thiên nhiên nhưng lại không nhìn vào thiên nhiên trong tính toàn thể của nó. Khoa Học không lưu ý đến giá trị con người và kết quả là quan điểm không được đầy đủ và sai lầm về thiên nhiên. Sự nghiên cứu kiến thức của Khoa Học không đầy đủ, không đạt mức toàn hảo, vì đã quên lãng phần thiên nhiên trong con người.

Điều đáng chú ý là niềm tin của Khoa Học, giống như Phật Giáo, cũng có ý kiến đề nghị chia thành hai hướng. Đó là niềm tin vào qui luật tự nhiên, thứ hai là tin vào khả năng thông minh của con người. Chúng ta hãy thử nhìn vào niềm tin của Khoa Học, nói cho đúng niềm tin này đoan quyết thiên nhiên có những định luật không thay đổi, với trí thông minh con người có thể tìm thấy sự thật trong thiên nhiên.

Niềm tin của Khoa Học có thể chia thành hai phương diện, và có hai đối tượng, giống như niềm tin của Phật Giáo. Trước nhất là niềm tin vào định luật thiên nhiên, sau là tin vào khả năng trí thông minh con người có thể hiểu được những qui luật ấy hay đơn giản là tin vào tiềm năng con người. Tuy nhiên phương diện thứ hai không thấy được nói rõ trong Khoa Học mà chỉ là một sự thừa nhận. Khoa Học không đề cập đến niềm tin về phương diện thứ hai, quan tâm rất ít đến việc phát triển tiềm lực của con người. Khoa Học chỉ tập trung vào việc phụng sự niềm tinphương diện thứ nhất.

phương diện này, Khoa Học khác biệt với Phật Giáo, Phật Giáo tin con người là quan trọng nhất, triển khai vấn đề này vào các hình thức tu tậphệ thống trong phần lớn giáo lý Phật Giáo. Qua toàn bộ giáo lý, niềm tin lúc nào cũng liên hệ giữa ba điểm. Đó là, sự vững tin vào tiềm năng của con người có thể phát triển trí tuệhiểu rõ sự thật về các qui luật tự nhiên, niềm tin này được hỗ trợ bởi sự tin chắc đã ăn sâu là thiên nhiên vận hành theo qui luật, và có sự tin chắc rằng nhận thức được qui luật tự nhiên ấy làm cho con người có thể hiểu biết được điều thiện cao nhất tức sự giải thoát khỏi khổ đau.

Loại niềm tin đó tạo thành sự khác biệt rõ ràng giữa Phật Giáo và Khoa Học. Trong Phật Giáo việc tìm chân lý song song với sự tu tập để thực hành và biến tiềm năng con người thành hiện thực. Điều này sẽ là đúng nếu sử dụng kiến thức có được từ việc nghiên cứu qui luật tự nhiên để phục vụ ảnh hưởng phá hoại của tham, sân và si thì khả năng sử dụng kiến thức bị giảm thiểu. Kiến thức đạt được sẽ hữu dụng trong tinh thần xây dựng.

Về phần Khoa Học, niềm tin lệch lạc về qui luật tự nhiên chính là nguyên nhân dẫn đến một cu?c tìm kiếm kiến thức không có mục tiêuvô kỷ luật. Không có sự phát triển nào của loài người và cũng không có sự bảo đảm nào rằng kiến thức đạt được sẽ được sử dụng chỉ đem lợi ích cho nhân loại. Khoa Học nghiên cứu các chân lý tự nhiên đã không giúp đỡ được ai, ngay cả những Khoa Học Gia, mãn nguyện, giải thoát khổ đau, làm dịu căng thẳng tinh thần, làm cho tâm đựợc an tịnhsáng suốt hơn. Đồng thời Khoa Học mở rộng con đường cho những giá trị bất thiện hướng việc phát triển khoa học đến tham sân si. Thí dụ trong thế kỷ vừa qua những giá trị bất thiện ấy là dục vọng chiếm đoạt thiên nhiênchủ nghĩa vật chất gây ra sự bóc lộtphá hoại môi sinh. Nếu cứ phát triển khoa học theo khuynh hướng đó, sẽ không còn biện pháp cứu chữa.

Phải nhấn mạnh loài người là sinh vật thông minh, hay thẳng thắn hơn là những chúng sinh có chủ tâm. Họ là những chúng sinh tạo nghiệp, và tất cả các loại nghiệp đều do ý muốn làm ra. Vì lý do đó, con ngườiý thức về các giá trị - tiêu chuẩn đạo đức. Căn cứ vào chỗ họ có niềm tin vào qui luật tự nhiên và sự ham thích muốn biết các qui luật ấy, họ phải biết các giá trị, có ý thức hay không có ý thức. Đặc tính này sẽ quyết định cách thức và phương hướngphương pháp để tìm sự thật - chân lý, cũng như bối cảnh và đường lối để thấy được sự thật - chân lý.

Nếu ý thức về các giá trị của loài người, không xâm phạm vào đức tính hòa hợp căn bản ở trong tâm, nói một cách khác, nhân loại không phát triển điều thiện tối thượng song song với việc tìm kiếm chân lý tự nhiên, sự tìm kiếm không thể hoàn toàn thành công (vì không lưư ý đến khía cạnh khác của sự thật), vì bị tràn ngập bởi những giá trị thấp kém, và không thể kiểm soát nổi, dễ bị sai huớng. Những giá trị thấp kém ảnh hưỏng đến việc tìm kiếm kiến thức, bóp méo sự thật đã được khám phá.

Nói một cách đơn giản, kiến thức của khoa học gia không tách rời các giá trị. Một thí dụ dễ hiểu về một trong những giá trị thấp kém là sự thích thú nấp đằng sau việc tìm kiếm kiến thức cùng với những khám phá. Dù là kiểu tìm kiếm kiến thức thuần túy, có giá trị tốt đẹp hơn, nếu phân tách sâu xa, cũng có những giá trị ẩn dấu bên trong như sự ham thích muốn thỏa mãn một số nhu cầu cá nhân, thâm chí cảm giác thích thú, ngay trong người nghiên cứu.

Tôi muốn tóm tắt tại điểm này về hai mức độ giá trị, giá trị cao nhất cùng với những giá trị trung gian có thể cùng tồn tai. Giá trị cao nhất là chân lý phải đạt cho được, không phải là loại mà nhân loại tạo lập trong tâm trí. Ngay từ lúc đầu các nhà khoa học đã có niềm tin vào thiên nhiên. Sự tin chắc này đã có một giá trị ngay trong lòng dạ họ từ lúc bắt đầu, nhưng niềm tin này phải mở rộng gồm cả thiên nhiênnhân loại, đòi hỏi phải tin vào điều thiện tối thuợng, đơn giản bằng cách ghi nhớ rằng các qui luật tự nhiên gắn liền với điều thiện tối thượng.

Khi có một giá trị đúng về niềm tin, giá trị phụ thuộc sẽ phát sinh; nghĩa là những giá trị ấy sẽ được tăng cường bởi sự khích lệ có chủ tâm ở ngay trong chính nó. Do đó có thể ngăn chặn giá trị đi lạc vào các khu vực bất thiện, nghĩa là không bị các giá trị thấp kém xâm chiếm.

Niềm tingiá trị căn bản của chúng ta, tạo ra các giá trị phụ thuộc, đặc biệt là về hoài bão muốn biết. Từ niềm tin vào chân lý tự nhiên phát sinh lòng khao khát muốn biết chân lý tự nhiên, hay sự thật của mọi sự vật. Hoài bão như vậy rất quan trọng cho cả Khoa Học lẫn Phật Giáo.

Từ niềm tin vào sự hiện hữu của điều thiện tối thượng và tiềm năng con người đã nảy sinh lòng mong muốn thoát khỏi khổ đau, vượt qua các khó khăn và theo đưổi sự phát triển cá nhân.

Loại khát vọng đầu tiên là lòng ham thích muốn biết chân lý tự nhiên. Loại khát vọng thứ hai là lòng ham được giải thoát khỏi khổ đau. Khi hai khát vọng này hợp nhất, lòng ham thích kiến thức được xác định và định hướng rõ ràng hơn Nó trở thành sự ham thích muốn biết chân lý tự nhiên để giải quyết những trở ngại khó khăn và hưóng dẫn con người đến giải thoát. Đó là sự viên mãn của Phật Giáo. Khi hai loại khát vọng ấy hợp nhất, chúng ta có một chu trình được hoàn thành, cân đối, đầy đủ toàn vẹn. Có một ranh giới rõ ràng cho khát vọng về kiến thức được sử dụng cho mục đích rõ rệt là tạo ra chất lượng cuộc sống cho đời. Nói tóm lại, khát vọng kiến thức của chúng ta liên quan thực sự đến con người, vạch ra con đuờng mà kiến thức sẽ được sử dụng.

Với Khoa Học, nguyên thủy chỉ là cái khát vọng về kiến thức. Khi khát vọng về kiến thức không có mục tiêu và không được định hướng thì kết quả là sự thâu thập bừa bãi các dữ kiện, cố gắng tìm hiểu sự thật ẩn tàng đằng sau thiên nhiên bằng cách tìm kiếm càng ngày càng hướng ra bên ngoài, một sự thật vì lợi ích của riêng mình. Trong khi sự nghiên cứu khoa học để tìm ra chân lý không có phương hướng thì con người lại bị lôi cuốn bởi giá trị. Vì khát vọng về kiến thức không được minh định rõ ràng, nó mở rộng cho các khát vọng khác, tức các giá trị thấp kém để lấp đầy vào chỗ trống. Tôi đã đề cập tới một số mục tiêu xa vời, như khát vọng chinh phục thiên nhiên, và sau đó, sự ham muốn sản xuất nhiều của cải vật chất. Hai loại khát vọng này tạo thành một loại chu trình khác biệt.

Tôi muốn nhắc lại ý nghĩa của chu trình trên; đó là khát vọng muốn biết những sự thật- chân lý tự nhiên để khai thác nhằm sản xuất của cải vật chất. Chu trình là nguyên nhân của vô số các khó khăn trong hiện tại: tinh thần, xã hội, và đặc biệt như chúng ta hiện thấy vấn đề môi trường.

Đó là vì tư tưởng của thời đại kỹ nghệ đã lợi dụng kẽ hở khoa học, một khát vọng mơ hồ không xác định rõ ràng về kiến thức, đó là hành động của con người được thực hiện bất kể đến nhân loại. Hiện tại, chúng ta đang nếm mùi hậu quả tai hại của kẽ hở đó: những vấn đề của môi trường, và ở đâu đó phát sinh từ niềm tincon người chế ngự được thiên nhiên rồi bám chặt chủ nghĩa vật chất.

Tư tưởng trên gây ra khuynh hướng thái quá trong việc làm của con người. Không có ranh giới ấn định trong việc tìm kiếm hạnh phúc. Việc làm tìm kiếm hạnh phúcvô tận, sự phá hủy thiên nhiên cũng vô tận. Những khó khăn nhất định phát sinh. Đó là chỗ rẽ của Phật Giáo và Khoa Học.

Nếu lý giải xa hơn, chúng ta sẽ thấy kẽ hở mà khoa học không hướng tới vì chỉ chú trọng vào thế giới vật chất bên ngoài. Khoa Học không nghiên cứu kiến thức thuộc phạm vi cá nhân con người.

Khoa Học không chú ý đến, thực ra là không hiểu bản chất tự nhiên con người, và kết quả Khoa Học đã trở thành công cụ cho kỹ nghệ mà những bước tiến ích kỷ của nó đã xâm hại môi trường tư nhiên. Không hiểu biết bản chất tự nhiên của con người là không hiểu biết thực tế rằng có làm cho năm giác quan thỏa mãn cũng không làm cho nhân loại hạnh phúcmãn nguyện. Tham dục vô đáy, nên sự tìm kiếm của cải vật chất cũng vô tận. Nhiều của cải vật chất đạt được qua việc khai thác thiên nhiên đưa đến sự thao túng thiên nhiên vô hạn độ và không có sự kiểm soát. Cuối cùng, thiên nhiên sẽ không thể thỏa mãn được tham dục của con người. Cả đến khi đã phá hủy hoàn toàn thiên nhiên, cũng không thể thỏa mãn hết tham dục của con người. Phải nói chính xác hơn là sự phá hoại thiên nhiên tự nó sẽ làm con người khốn khổ hơn là hạnh phúc.

Con người hay cái tôi là trung tâm

Tôi vừa đề cập đến một số điểm căn bản chung trong Phật giáo và Khoa Học, cả lãnh vực niềm tin lẫn khát vọng kiến thức. Bây giờ tôi muốn nói đến đối tượng của niềm tin và khát vọng kiến thức. Đối tượng đó là sự thật hay còn gọi là chân lý. Khát vọng và niềm tin của chúng ta bắt nguồn từ gốc rễ sự ham thích sự thậtkiến thức. Khi tiến tới được phần cốt lõi của vấn đề, đó là kiến thức hay chân lý, khát vọng của chúng ta thỏa mãn. Điều này có nghĩa là nhân loại phải hiểu chân lý của các qui luật tự nhiên.

Tôi muốn nhấn mạnh một lần nữa là trong Phật Giáo mục tiêu của chúng tasử dụng kiến thức về chân lý để nâng cao đời sống con người, và giải quyết khó khăn, hầu đạt được một cuộc sống hoàn toàn tự do. Mặt khác, mục đích của Khoa Học là sử dụng kiến thức để chinh phục thiên nhiên hầu sản xuất nhiều của cải vật chất. Điều này có lẽ hết sức rõ ràng trong lời tuyên bố của René Descartes, một học giả nổi tiếngđịa vị quan trọng nói về việc phát triển khoa học và triết lý Tây Phương. ông viết mục tiêu của khoa học là một phần trong việc đấu tranh: "làm cho chúng ta thành chủ nhân ông và sở hữu chủ thiên nhiên".

mục tiêu khác thì đối tượng của kiến thức cũng phải khác. Đối tượng kiến thức trong Phật Giáo là gì? Đối tượng chính mà chúng tôi nghiên cứubản chất con người. Con người là đối tượng của kiến th?c, và từ đó, sự nghiên cứu của chúng tôi trải rộng bao gồm mọi sự vật bên ngoài. Nhân loại lúc nào cũng là đối tượng, là trung tâm điểm để từ đó chúng tôi nghiên cứu chân lý của thiên nhiên.

Trong Khoa Học, mặt khác, đối tượng của sự nghiên cứu là môi trường vật chất bên ngoài. Ngay khi Khoa Học nhìn vào con người cũng chỉ coi con người như một tổ chức vật chất khác trong phạm vi vũ trụ vật chất. Như vậy, Khoa Học không nghiên cứu về đời sống. Khoa Học nghiên cứu đời sống con người, nhưng chỉ có mục đích sinh học, không nghiên cứu về 'con người' hay 'tính người'.

 

Lãnh vực nghiên cứu về kiến thức của Phật Giáocon người, trong khi lãnh vực của Khoa Học là thế giới bên ngoài. Lấy điểm này làm căn bản, chúng ta hãy nhìn vào những lãnh vực thiên nhiên mà Khoa Học nghiên cứuPhật Giáo tìm hiểu.

Phật Giáo tin tưởng con người là sự tiến hóa tối cao của thiên nhiên.Vì lý do này, nhân loạihình ảnh bao trùm đầy đủ chân lý trong chính con người, tức là cơ thể con người chứa đựng thiên nhiên cả bình diện tinh thần lẫn vật chất. Trên bình diện vật chất chúng ta có cơ thể, tạo thành bởi các yếu tố (đất, nước, gió, lửa) liên hệ đến thế giới vật chất bên ngoài. Tuy nhiên, thế giới vật chất không bao gồm giá trị, hay tâm thức. Vì thế khi nghiên cứu con người, ta có thể biết được sự thật về tất cả mọi khía cạnh của chân lý tự nhiên gồm cả mặt nổi vật chất lẫn mặt chìm trừu tượng.

Khoa Học nghiên cứu thiên nhiên chỉ trên bình diện vật chất, trên thế giới vật chấtnăng lượng, không chú ý và cũng không công nhận nhân tố tâm trí, ý thức nghĩa là tinh thần. Khoa Học nghiên cứu từ bên ngoài vào. Tiến tới cơ thể con người, khoa học chỉ nghiên cứu "đời sống" mà không nghiên cứu con người. Khoa Học chỉ biết những sự việc thực tế của thế giới vật chất mà không biết bản chất con người hay bản tính của con người.

Từ trước tôi chỉ nói đến những nguyên tắc căn bản. Giờ đây, xin có một số nhận xét chung:

Vừa rồi, tôi nói Phật Giáo đặt nhân loại vào trung tâm điểm, loài ngườitrung tâm. Mục đích rõ rệt này là để hiểu rõ và phát triển con người. Khoa Học, mặt khác, chỉ chú trọng đến thế giới bên ngoài.

Khoa Học chỉ tìm hiểu sự thật của các vấn đề bên ngoài con người.

Sau nhiều năm, Khoa Học đưa ý đồ chinh phục thiên nhiên vào phương châm hành động của nó, một lần nữa Khoa Học đặt để con người vào vị trí trung tâm, nhưng trong một đường lối khác hẳn Phật Giáo. Phật Giáo cho con ngườitrung tâm trong ý nghĩa xác nhận trách nhiệm của mình. Phật Giáo nhấn mạnh bổn phận của con người đối với thiên nhiên. Phật Giáo đặt con người vào trung tâmcon người phải tự mình phát triển, tìm cách vượt qua các khó khăn. Đó là cái thực sự lợi ích khiến cho con người đạt giải thoát, điều thiện tối thượngthoát khỏi khổ đau.

Khoa Học đưa quan điểm ham muốn chinh phục thiên nhiên vào khát vọng của nó, cũng lại đặt con người vào trung tâm nhưng chỉ để khai thác thiên nhiên. Con người nói "Tôi muốn cái này", từ điểm này con người tiến hành thao túng thiên nhiên để đáp ứng cho lòng tham dục của mình. Nói một cách đơn giản, Khoa Học đặt con nguời vào trung tâm với mục đích thỏa mãn tính vị kỷ của mình.

Trong mối tương quan với đối tượng nghiên cứu, Phật Giáo đặt con người vào trung tâm. Con người trở thành sự thật phải được nghiên cứu hầu có thể mở mang hữu hiệu tiềm năng sẵn có. Riêng Khoa Học, ngay lúc bắt đầu, cũng là để tìm hiểu sự thật, nhưng hướng sự quan tâm chỉ vào thế giới vật chất. Rồi Khoa Học đặt con người vào trung tâm như một tác nhân sử dụng những vật dụng vật chất ấy để thỏa mãn tham dục của mình. Phật Giáo và Khoa Học cả hai đều lấy thuyết con ngườitrung tâm nhưng sự khác biệt là trong khi Phật Giáo lấy con người làm trung tâm thì Khoa Học lấy cái tôi làm trung tâm.

Điều nhận xét thứ hai mà chúng tôi muốn nêu lên liên quan đến Khoa Học Thuần Túy: Khoa Học thuần túy hay không thuần túy?

Thuật ngữ "Khoa Học Thuần Túy", gọi thế vì nó được coi là 'khoa học và chỉ là khoa học', nghĩa là kiến thức thuần túy không mảy may quan tâm đến ứng dụng, được dùng để phân biệt với Khoa Học Ứng Dụng hay Kỹ Thuật. Nhưng ngày nay Khoa Học không còn thuần túy. Trong ý nghĩa Khoa Học thuần túyham muốn tương đối thuần túy nhằm nghiên cứu qui luật thiên nhiên, có thể gọi là thuần túy, nhưng khi những giá trị khác xâm nhập vào việc nghiên cứu, nó trở nên không thuần túy.

Tương đồng trong phương pháp nhưng khác biệt trong việc đặt tầm quan trọng.

Sau khi đã nhìn vào mục đích của sự tìm hiểu, bây giờ chúng ta xét đến các phương tiện để đạt được mục tiêu ấy. Thế nào là phương pháp được sử dụng trong Phật Giáo để tìm kiến thức? Trong Phật Giáo, phương pháp dùng tìm chân lý có ba lớp:

Thứ nhất, nhận thức kinh nghiệm phải trực tiếp và vô tư. Vô tư là sự nhận thức mọi sự đúng như chúng tồn tại. Phật Giáo nhấn mạnh giá trị về cách nhìn sự thật đúng ngay từ nhận thức tiên khởi: khi mắt nhìn cảnh, tai nghe âm thanh, và vân vân..

Hầu hết với đa số, đó là một vấn đề. Nhận thức luôn luôn đi theo cái cách mà người ta muốn sự vật là như thế, tức là như họ nghĩ mà không như chúng thực sự diễn ra. Họ không thấy sự vật vận động theo qui luật của nó vì nhầm lẫn, xuyên tạc, thành kiếnquan niệm sai lầm.

Thứ hai, phải suy nghĩtrật tự, tức là suy nghĩhệ thống. Thêm vào phương pháp nhận thức một cách trung thực, phải có cách suy nghĩ trung thực.

Thứ ba, phương pháp kiểm chứng sự thực, hay nghiên cứu kiến thức là qua kinh nghiệm trực tiếp.

Làm sao bảo đảm được sự nhận thức về kinh nghiệm mà không có thành kiến? Thông thường bất cứ lúc nào khi con người nhận thức kinh nghiệm sẽ có một số giá trị nào đó tức khắc xen vào. Ngay tại chỗ này, nẩy sanh kiến thức đầu tiên, đã có một vấn đề, đó là có sự dính líu hay không dính líu đến những giá trị ấy.

Cái gì là những giá trị ấy? Những sự kiện nhập vào lĩnh vực nhận thức sẽ có những đặc tính khác biệt, tạo thành những cảm nghĩ thích thú hay không thích thú. Tất cả những kinh nghiệm của chúng ta đều giống như vậy. nếu thích thú chúng ta gọi là hạnh phúc, trong khi nếu không thích thú, gọi là khổ đau.

Khi nhận thức phát sinh, chúng ta chứng nghiệm một cảm nghĩ dễ chịu hoạt động của tâm thức tức khắc đưa đến thích hay không thích. Chúng ta gọi đó là khoái cảm hay ác cảm, thương hay ghét. Cho nên nhận thức những cảm xúc bị những đặc tính thiện cảm hay ác cảmvui thích hay chán ghét chen vào. Những phản ứng ấy hình thành thói quen cho con người, từ ngày mới sinh, làm cho con người cực kỳ chao đảo. Ngay khi một kinh nghiệm được nhận thức, những giá trị thoải mái, không thoải mái, hay dửng dưng, theo liền tức khắc và từ đó thương hay ghét, vui thích hay ác cảm.

Sau khi khoái cảm, ác cảm, thích hay không thích, yêu hay ghét phát sinh, sẽ có sự suy nghĩ theo cảm nghĩ đó và bị ảnh hưởng của những cảm nghĩ đó. Nếu hấp dẫn, tư tưởng sẽ có tâm trạng này, nếu là ghét bỏ, tư tưởng sẽ có tâm trạng khác. Do đó, kiến thức tích lũy cũng bị bóp méo, chao đảo hay thành kiến. Nhận thức sai lầm, sẽ làm tăng nhanh khâu thu thập dữ kiện và chọn lựa chúng. Chỉ một vài quan niệm trí tuệ được nhìn nhận, không phải là tất cả, thành thử kiến thức không rõ ràng hoặc không toàn diện. Tóm lại, nhận thức không đúng bản chất của sự vật.

Chính vì thế, trong Phật Giáo chúng tôi nói, chúng ta phải xây dựng chính chúng ta một cách đứng đắn. Phải nhận thức sự vật đúng như chúng tồn tại, nhận thức bằng sự chú tâm chẳng thích mà cũng chẳng không thích. Chứng nghiệm phải được nhận thức với một tâm ý tỉnh thức c?a một người học hỏi, khách quan, không phải tâm ý thuơng hay ghét.

Làm sao ta nhận thức bằng tâm đang nhận thức? Tóm lại có hai phương cách để nhận thức với một tâm ý đang tìm hiểu:

1. Nhận thức bằng cách nhìn vào sự thật: Đó là nhận thức về mọi sự đúng như chúng tồn tại, không bị tác độngbóp méo sức mạnh của sự thích hay không thích. Đó là loại nhận thức thuần túy, hiểu biết cơ bản về kinh nghiệm, không thêm thắt một đánh giá chủ quan nào cả. Nhận thức này được nói đến trong kinh "nhận thức vừa đủ để mở mang trí tuệ". vừa đủ để biết và hiểu chứng nghiệm vì nó là như thế, sự hiện diện của ký ức chỉ là để thâu thập các dữ kiện. Đặc biệt, nhìn sự vật theo nguyên nhân và những điều kiện của chúng.

2. Nhận thức trong đuờng lối mang lợi ích: Đó là nhận thức với một giá trị thiết thực, thật sự hữu dụng, thay vì phục vụ, cố thỏa mãn giác quan hoặc làm mất tác dụng của giác quan. Nhận thức kinh nghiệm theo đường lối đó dẫn tới có thể sử dụng tất cả những kinh nghiệm thích lẫn không thích.

Loại hiểu biết thứ hai có thể được mở rộng tới mức: kinh nghiệmchức năng tự nhiên của sự sống, và nó liên hệ chặt chẽ với môi trường tự nhiên để nhận được lợi ích. Nhưng muốn đời sống có lợi từ những kinh nghiệm, chúng ta phải nhận thức đúng về kinh nghiệm. Nghĩa là, phải có một sự cố gắng có ý thức để nhận thức trong một cách thức dẫn tới thấy được triển vọng có đem lại lợi ích trong việc giải quyết các vấn đề và dẫn đến mở mang đời sống. Nếu không, nhận thức chỉ là một công cụ để thỏa mãn dục vọng của giác quan, hoặc là một nguyên nhân để làm đảo lộn các dục vọng của giác quan, và tất cả lợi ích đều tiêu tan. Loại nhận thức từ kinh nghiệm lĩnh hội kinh nghiệm theo các đó hình thành loại nhận thức sử dụng đến kinh nghiệm. Dù các kinh nghiệm ra sao, tốt, xấu, tiện lợi hay không, cũng vẫn có thể đem sử dụng mang lại lợi ích. Tất cả đều do chúng ta học cách lĩnh hội những kinh nghiệm ấy có đúng hay không.

Ở đây mục tiêu của chúng tatìm ra chân lý, chúng ta phải nhấn mạnh loại nhận thức thứ nhất. Trong loại này, nếu tránh được những nguồn tin sai lầm, hậu quả của khoái cảm hay ác cảm không xẩy ra, nhận thức sẽ đem lại nhiều cách thức tìm hiểu.

Loại nhận thức này rất quan trọng trong việc nghiên cứuhọc hỏi. Chúng ta hãy học hỏi đúng ngay từ nhận thức lúc ban đầu. Trong Phật Giáo điểm này được nhấn mạnh - nhận thức để học hỏi, không phải để chiều theo thị hiếu, để thỏa mãn tham dục của giác quan. Khoa Học không nói nhiều đến việc này, và cũng không nhấn mạnh, nhưng nếu mục tiêu là để nhận thức chân lý thì phương pháp này rất thiết yếu.

Nhân tố thứ hai để giành đươc kiến thức là cách suy nghĩ đúng (chánh tư duy). Điều này có nghĩa tư duy phải có cách thức, hợp lý, phù hợp với nguyên nhânđiều kiện. Nhiều cách tư duy được ghi nhận trong Kinh Phật. Suy nghĩ thành thực là nhân tố quan trọng trong việc mở mang quan điểm đúng (chánh kiến), hiểu biết hay tầm nhìn xa thấy phù hợp với thực tế. Đó là cách nhìn mọi sự theo nguyên nhânđiều kiện, hay hiểu thấu nguyên tắc về nguyên nhânđiều kiện. Một số loại suy nghĩ chín chắn được giải thích trong kinh:

1. Tìm nguyên nhânđiều kiện: Loại tư duy này là điều quan trọng nhất trong sự giác ngộ của Đức Phật. Thí dụ để tìm ra sự thật về 'thọ' (cảm giác, cảm xúc), kinh nghiệm về lạc thúđau đớn, Ngài hỏi: "Những cảm giác về lạc thú hay đau đớn tùy thuộc vào cái gì? Điều kiện của chúng là cái gì? "

Suy nghĩ như vậy, Đức Phật thấy rằng do 'xúc', cảm giác của sự tiếp xúc, là điều kiện của cảm giác. "Bây giờ điều kiện của xúc là gì? Đức Phật thấy sáu giác quan căn bảnđiều kiện của xúc là......và vân vân...Trên đây là thí dụ về tư duy theo nguyên nhânđiều kiện.

2. Tư duy bằng cách lý giải: Sự sống của cơ thể người có thể phân tách thành hai bộ phận cấu thành chính: thân và tâm. Thân và tâm sẽ được phân tách cặn kẽ hơn. Thí d?, tâm có thể phân tách thành thọ, tưởng, hành, thức (x), và mỗi loại như vậy lại được phân tách thành những bộ phận cấu thành nhỏ hơn. Thí dụ thọ có thể chia thành ba loại, năm loại, sáu loại hay hơn nữa. Điều trên được gọi là " tư duy bằng cách lý giải các bộ phân cấu thành', đó là cách phân chia toàn bộ bức tranh hay toàn bộ hệ thống, do đó mà những nguyên nhânđiều kiện liên hệ có thể nhận thấy dễ dàng hơn.

(x) Chúng là bốn uẩn tinh thần hợp với sắc hay dạng thức vật chất, hình thành toàn bộ của một đời sống.

3. Tư duy về phương diện lợi và hại: Đó là cách nhìn mọi sự bằng cách cân nhắc đặc tính của chúng, thấy được các chiều hướng trong đó chúng mang lại lợi ích hay gây tai hại cho chúng ta, không chỉ nhìn riêng về một mặt lợi hay môt mặt hại. Đa số có khuynh hướng chỉ nhìn lợi ích của những vần đề mà họ thích, hoặc cái gì sai của những vấn đề mà họ không thích. Phật Giáo nhìn vào mọi sự từ mọi phía, dạy cho chúng ta nhìn cả vào phần mang lợi ích lẫn phần tác hại của chúng.

Những loại tư duy như vậy vào khoảng mười loại được ghi trong các kinh. Chúng là một phần quan trọng trên cho con đuờng dẫn đến chân lý.

Trong nghĩa rộng, tư duy gồm cả cách nhận thức các vấn đề, nhận thức lúc ban đầu, và, giống như các dạng thức nhận thức, có thể chia thành hai nhóm chính - đó là tư duy cốt để để nhìn thấy chân lý, và tư duy trong phương cách đem lợi ích. Tuy nhiên tôi không mở rộng đề tài về điểm này vì điểm này đòi hỏi nhiều thì giờ.

Kế theo là phương pháp thứ ba để đạt chân lý trong Phật Giáo là xác minh qua kinh nghiệm bản thân. Một trong những nguyên tắc quan trọng trong Phật Giáochân lý có thể được biết và kiểm tra thông qua theo d‚i quan sát bằng kinh nghiệm trực tiếp. Thí dụ nhìn lại Kinh Kalama, người Kalama được Đức Phật khuyên giảng không nên đơn giản tin vào mọi sự, tóm lại là "khi chính bạn đã nhìn thấy cái hay hay cái dở rồi thì phát triển cái hay và loại bỏ cái dở". Giáo lý này rõ ràng làm sáng tỏ cách thực hành căn cứ theo kinh nghiệm bản thân.

Nhìn vào cuộc đời Đức Phật, chúng ta có thể thấy thấy pháp quán chiếu kinh nghiệm bản thân này trong suốt quá trình tu tập của chính Ngài. Khi Ngài rời cung điện tìm giác ngộ, Ngài đã thực hành các phuơng pháp tu tập thời bấy giờ: tu khổ hạnh, du già, nhập địnhtĩnh tọa. Cả đến khi Ngài sống trong rừng, Ngài thực hành tất cả các phương cách thí nghiệm. Thí dụ, Ngài kể khi Ngài đã sống một mình trong rừng hoang như thế nào, do đó Ngài thể thử nghiệm sự sợ hãi. Trong đêm khuya, một cành cây gẫy có thể làm sợ hãi. Đức Phật luôn luôn tìm hiểu những nguyên nhân gây sợ hãi.Dù trong bất cứ trạng huống nào, Ngài cũng vẫn giữ nguyên tư thế bình tĩnh cho đến khi vượt qua trạng huống đó. Đa số thường chạy trốn khi sợ hãi! Đức Phật không chạy, Ngài ở đó cho đến khi Ngài vượt qua khó khăn ấy. Một thí dụ khác, sự thí nghiệm của Đức Phật với tư tưởng tốt và xấu. Ngài thí nghiệm với tư duy của Ngài cho đến khi có thể làm các tư tưởng không tốt lắng xuống.

Đức Phật dùng phương pháp chứng nghiệm bản thân suốt trong việc tu tập của Ngài. Khi Ngài dạy các đệ tử, Ngài dạy các đệ tử hãy đánh giá cẩn thận vị đạo sư trước khi tin vị ấy, vì niềm tin bao giờ cũng là phương tiện để phát triển trí tuệ. Đức Phật dạy các đệ tử phải đánh giá cẩn thận các vị thầy, ngay cả chính Đức Phật nữa, xem có triển vọng nào dẫn tới chân lý trong sự dạy dỗ của họ hay không, và cho đến động cơ giảng dạy của thầy có trong sáng hay không.

Thử nghiệm kiến thức của vị đạo sư có thể phán xét qua lời giảng của vị thầy có hợp lý hay không. Thử nghiệm chủ tâm của vị thầy có thể phán xét qua ý đồ của vị Thầy lúc giảng dạy. Có phải vị thầy giảng dạy vì ham thích được thưởng công? Phải chăng là muốn có sự biếu xén, hay một lợi lộc cá nhângiáo lý của mình, không phải là đem lợi ích cho người nghe. Nếu sau khi đánh giá vị thầy, thấy tín nhiệm ta có thể tiếp nhận lời giáo huấn. Sự đánh giá và lượng định này tiến hành qua tất cả các mức độ quan hệ thầy-trò.

Chúng ta có thể nhìn vào lời dạy về Bốn Nguyên Tắc Định Tâm, nhấn mạnh vào thiền quán nội tâm. Khi tập thiền nội tâm, chúng ta lúc nào cũng phải xem xétsuy nghĩ sâu đến những kinh nghiệm đã đi vào nhận thức của ta khi chúng xuất hiện. Dù là cảm nghĩ thích thú hay không thích thú xuất hiện, dù tâm bị phiền muộn hay phấn khởi, Đức Phật dạy hãy nhìn vào nó và nhận biết nó nẩy sanh, chuyển động và biến đi.

Dù là sự tu tập ở giai đoạn cao nhất, khi lượng định để xem một người đã giác ngộ hay chưa, hãy nhìn ngay vào tâm chúng ta, xem trong tâm còn tham sân si không, hơn là nhìn vào những dấu hiệu đặc biệt hay phép lạ.

Vì sự nhấn mạnh vào lãnh vực nghiên cứu trong Phật giáo và Khoa Học khác biệt trên phương diện quan sát, thí nghiệm và kiểm chứng nên kết quả trong hai phạm vi này cũng khác nhau. Khoa học cố gắng quan sát sự việc trong vũ trụ vật chất, dùng năm giác quan, với mục tiêu thao túng vũ trụ vật chất bên ngoài. Trong ngôn từ Phật Giáo chúng ta có thể nói Khoa Học tinh thông trong các lãnh vực vật lý và sinh học.

Mặt khác, Phật giáo nhấn mạnh việc nghiên cứu con người, thừa nhận kinh nghiệm qua tất cả giác quan, gồm cả giác quan thứ sáu, tâm. Mục tiêu tu tập của người Phật Tửđạt được điều thiện cao nhất, và thấu hiểu chân lý thiên nhiên. Thậm chí trước khi đạt được mục tiêu, cũng có sự uốn nắn các vấn đề và những bước tiến trong sự phát triển con người. Vì lý do đó, lời dạy và phương pháp đề cập đến quan sát, thí nghiệm, kiểm chứng hiện tượng tinh thần cùng cách cư xử của con người. Trong thuật ngữ Phật Giáo chúng tôi có thể nói Phật Giáosức mạnh trong lãnh vực luân lýtâm linh.

Nếu có thể hòa nhập các lãnh vực chuyên môn tương ứng của Khoa Học với Phật Giáo, gom thành quả lao động của cả hai lại, chúng ta có thể tiến đến một đường lối cân đối dẫn nhân loại phát triển tới mức độ cao hơn.

Những khác biệt trong phương pháp

Về vấn đề của ba phương pháp tìm kiến thức, chúng tôi muốn nhắm vào sự khác biệt giữa những phương pháp ấy trong Phật Giáo và Khoa Học.

Trước tiên, Khoa học sử dụng phương pháp thu thập kiến thức để tìm chân lý. Sự thâu thập kiến thức này hoàn toàn tách rời khỏi những quan tâm về cách sống con người, trong khi Phật Giáo, phương pháp đạt kiến thức là một phần của lối sống con người. Khoa Học không quan tâm gì đến cách sống con người, chỉ nhắm vào chân lý riêng cho nó, nhưng Phật Giáo, phương pháp là một phần của lối sống- thực tế đó là lối sống- có ảnh hưởng tích cực đến đời sống ngay trong hiện tại. Thí dụ, hãy xét ảnh hưỏng của nhận thức thuần túy đến chất lượng đời sống, mà không có sự can thiệp của thích thú hay ghét bỏ. Sự nghiên cứu kiến thức của Phật Giáo tự nó có giá trị rất to lớn, không màng tới mục tiêu đạt được hay không.

Khoa Học lấy dữ kiện do kinh nghiệm phát xuất từ năm giác quan, trong khi Phật Giáo gồm cả kinh nghiệm của giác quan thứ sáu, tâm mà Khoa Học không thừa nhận. Phật Giáo cho rằng giác quan thứ sáu là một sự thật có thể kiểm chứng, Tuy nhiên, sự kiểm chứng chỉ thực sự được thực hiện qua những giác quan tương ứng với những dữ kiện của nó. Chẳng hạn muốn kiểm tra vị, ta phải dùng lưỡi; muốn kiểm tra âm thanh to nhỏ, ta phải dùng tai, chứ không phải mắt. Nếu muốn kiểm chứng mầu sắc, ta không thể dùng mũi được. Giác quan căn bản để xác minh dữ kiện phải tương ứng với loại dữ kiện được kiểm chứng.

Nếu giác quan thứ sáu không được thừa nhận, chúng ta sẽ mất đi một số dữ kiện to lớn vì có nhiều chứng nghiệm, cảm giác chỉ phát xuất từ tâm. Chẳng hạn chúng là những chứng nghiệm trong tâm, mà người ta có thể kinh qua và xác minh như thuơng, ghét, sân hậnsợ hãi. Những cảm nhận này không thể xác minh hay chứng nghiệm qua những giác quan khác. Nếu ta cảm thấy tình thương trong tâm của chúng ta thì có thể tự mình xác minh được. Khi có sợ hãi hay giận dữ, hay cảm nghĩ thoải mái, an lạc, thỏa mãn, chúng ta biết trực tiếp từ tâm chúng ta.

Cho nên, trong Phật Giáo chúng tôi cho giác quan thứ sáu là tâm và sự tư duy của nó, một vai trò nổi bật đáng chú ý trong việc nghiên cứu kiến thức hay chân lý. Nhưng Khoa Học không thừa nhận giác quan thứ sáu, phải nhờ vào các dụng cụ thiết kế cho năm giác quan, chủ yếu là mắt và tai, cũng như điện não đồ để nghiên cứu tiến trình suy nghĩ.

Khoa học gia cho chúng ta biết trong tương lai họ có thể biết một người đang nghĩ gì đơn giản chỉ cần dùng một cái máy, hay phân tích các chất tiết ra từ bộ não. Những thứ như vậy có cơ sở thực tế, nhưng sự thật của các vấn đề ấy sẽ cho thấy, chắc chắn giống như Sir Arthur Eddington khám phá "Cái bóng của thế giới các ký hiệu". Không phải thực sự là chân lý mà chỉ là cái bóng của chân lý.

Điều trên cho thấy chân lý khoa học, giống như phương pháp khoa học, không hoàn hảo, vì nó chỉ chọc thủng một trong những qui tắc về quan sát. Công cụ không phù hợp với dữ kiện. Chừng nào điều này vẫn còn đúng thì khoa học vẫn tiếp tục quan sát cái bóng của sự thật chân lý trong một thời gian dài sắp tới.

Về giác quan thứ sáu, tâm, cũng rất quan trọng trong khoa học. Khoa học chính nó phát triển do giác quan thứ sáu này, ngay từ lúc ban đầu cho đến nay gồm các mức độ thí nghiệm và tổng kết. Cơ bản có thể tin được là, trước khi bất cứ giác quan nào được sử dụng, khoa học gia phải dùng suy nghĩ. Khoa học gia phải thiết kế, hoạch định một phương pháp kiểm chứng, và một giả thiết. Tất cả những hoạt động đó đều là tiến trình trí tuệ, nó lệ thuộc tâm. Cả đến khi áp dụng thực tế cũng phải có tâm theo d‚i sát các sự kiện bằng nhận thức, ghi chép. Tâm là trọng tài, là vị quan tòa phán xét chấp nhận hay không chấp nhận những dữ kiện xuất hiện trong cuộc thí nghiệm.

Các giai đoạn quyết định của nghiên cứu khoa học, đánh giákết luận cuộc thí nghiệm, công thức của một lý thuyết vân vân..., tất cả đều do tiến trình tư tưởng Chúng ta có thể tin tưởng mà nói rằng những lý thuyết của khoa học là tất cả kết quả của tư duy, là thành quả của giác quan thứ sáu, trực tiếp cảm thấy. Phật Giáo thừa nhận sự quan trọng của giác quan thứ sáu như một nguồn mà qua đó những sự việc có thể được lĩnh hội qua giác quan thích hợp.

Điểm quan trọng là nhận thức đó phải được nhận đúng do giác quan liên hệ. Điều gì nhận thức bằng mắt, mắt phải nhận thức. điều gì nhận thức bằng lưỡi, lưỡi phải nhận thức. Cũng lẽ đó, điều gì phải nhận thức bằng tâm, không thể nhận thức bằng mắt, tai hay bất cứ giác quan nào ngoài tâm ra.

Sự thật của tâm là tiến trình nguyên nhân và kết quả có thể kiểm chứng được. Nó lệ thuộc các qui luật tự nhiên. Dù có vẻ rất phức tạp và khó khăn theo dõi, Phật Giáo dạy tâm cũng tuân theo dòng nguyên nhânđiều kiện, giống như tất cả hiện tượng thiên nhiên khác.

Trong thế giới vật chất, hay vật lý, điều phải công nhận là tất cả sự vật hiện hữu đều do nguyên nhân và các điều kiện, nhưng trong những điều kiện hết sức phức tạp, khó có thể tiên đoán hay theo d‚i sự việc. Một thí dụ đơn giản như dự báo thời tiết được công nhậnviệc làm rất khó khăn, vì có quá nhiều thay đổi. Sự nối tiếp của nguyên nhânđiều kiện trong tâm lại càng phức tạp hơn những yếu tố về thời tiết, làm tiên đoán kết quả lại càng khó hơn nữa.

Con người là một phần của thiên nhiên chứa đựng tất cả thiên nhiên trong con người. Nếu có thể mở mắt và nhìn, người ta có thể đạt được chân lý tự nhiên như một chứng nghiệm trực tiếp. Dùng máy móc khoa học, một hình thức mở rộng năm giác quan, là cách làm vòng. Nó chỉ có thể xác minh sự thật ở một mức độ nào đó, chỉ đủ để chinh phục thiên nhiênthế giới bên ngoài (tới một mức độ nào đó), nhưng không thể dẫn con người đến chân lý toàn vẹn của sự thật.

Cho đến nay chúng tôi đã đề cập đến những khác biệt và tương đồng trong tầm hoạt động và đối tượng của Phật Giáo và Khoa Học, loại kiến thức đang tìm kiếm, những phương pháp sử dụng để tìm kiến thức, việc sử dụng kiến thức đạt đượctoàn bộ mục tiêu của kiến thức. Mặc dù phương pháp để tìm hoạt động và việc đặt tầm quan trọng, nhưng những phương pháp ấy đưa đến sự dị biệt về tầm xa và trong việc mở rộng, vì chân lý được nghiên cứu lại khác hẳn nhau.



#77
tritanngo99

tritanngo99

    Đại úy

  • Điều hành viên THPT
  • 1644 Bài viết

PHẬT GIÁO NỀN TẢNG CỦA KHOA HỌC
Hòa thượng Prayudh Payutto
Tỳ kheo Thích Tâm Quang dịch




V. TIẾN VÀO RANH GIỚI CỦA TÂM

GIỚI HẠN CỦA KIẾN THỨC KHOA HỌC

Bây giờ chúng tôi muốn đề cập đến những giới hạn về kiến thứcnghiên cứu của khoa học. Trở lại như đã nói trước đây, chúng tôi có nói đến bản chất khác biệt và phạm vi đối tượng của chúng ta về kiến thức gợi lên một số nhận định. Chúng tôi có nói rằng Phật Giáo nghiên cứu phạm vi con ngườixác nhận hiểu thấu sự thực của con người là có thể hiểu được trọn vẹn vũ trụ, trong khi khoa học chỉ đặt trọng tâm vào sự nghiên cứu thế giới bên ngoài mà kiến thức này chỉ đưa đến sự hiểu biết về thế giới vật chất. Cùng tột kiến thức này chỉ đưa đến ranh giới của tâm mà thôi vì nó chỉ ảnh hưởng thế giới vật chất (và ngược lại) trong một phạm vi giới hạn.

Chúng tôi cũng đã nói đến khoa học, đặc biệt về vật lý, đã thành công với nhiều tiến bộ vĩ đại, có thể nói rằng đã tiến đến giới hạn của lãnh vực kiến thức. Trước đây, khoa học tin rằng khoa học có thể hiểu biết toàn bộ vũ trụ đơn giản chỉ cần hiểu biết thế giới vật chất bên ngoài bằng các cuộc nghiên cứu khoa học căn cứ vào năm giác quan. Khoa học lấy quan điểm cho rằng tất cả các hiện tượng của tâm bắt nguồn từ vật chất. Hiểu được toàn vẹn vật thì cũng hiểu được tâm. Nhưng ngày này chỉ một thiểu số khoa học gia tin như vậy vì kiến thức to lớn tìm ra về vật không đem đến một ánh sáng nào về tâm cả.

Trong hiện đại, quan niệm sự thật về vật và tâm được phân định thành hai nhóm hay mẫu chính:

1. Thế giới về vật thể và thế giới về tâm giống như hai mặt của một đồng tiền. Có nghĩa là chúng hoàn toàn riêng rẽ, nhưng chúng tác động lẫn nhau. Nhóm thứ nhất tin rằng hai sự thực này đều trái ngược nhau, và mỗi mặt phải được nghiên cứu riêng rẽ và sau tổng hợp vào thành một kiến thức duy nhất.

2. Thế giới về vật thể và thế giới về tâm giống như hai hai cái nhẫn (vòng tròn) cùng trong một quỹ đạo. Nhóm thứ hai thấy vùng kiến thức là một qũy đạo lớn có một vòng tròn bên trong và một vòng tròn bên ngoài. Vòng tròn bên trong bị giới hạn vào chu vi của nó trong khi vòng tròn bên ngoài bao trùm cả lãnh vực của mình và cả vòng tròn bên trong. Nếu hiểu được vòng tròn bên ngoài thì hiểu được tất cả trong lẫn ngoài, nhưng nếu chỉ hiểu vòng tròn nhỏ, sự hiểu biết chưa trọn vẹn vì vẫn chưa hiểu được vòng tròn lớn. Vòng lớn bao trùm cả vòng nhỏ. Nếu hiểu được vòng lớn, thì hiểu được tất cả, nhưng chỉ hiểu được vòng nhỏ thì kiến thức chưa trọn vẹn vì chưa hiểu vòng tròn lớn bên ngoài.

Bây giờ, nếu trong mô hình ấy, kiến thức về vật là vòng tròn nhỏ, dù kiến thức về vật bao trùm cả thế giới vật thể, cũng vẫn chỉ hiểu được vòng tròn nhỏ mà thôi. Vẫn chưa hiểu được vòng tròn lớn bên ngoài tức tâm. Nếu mặt khác, vòng tròn bên ngoài mà ta có thể hiểu được thì đương nhiên hiểu được mọi sự vật. Nay mô hình nào đúng hơn? Chúng tôi không đưa ra câu trả lời, và để lại câu trả lời cho những ai quan tâm đến vấn đề tự có câu trả lời.

Trong bất cứ trường hợp nào, nhiều những nhà vật lý lỗi lạc đã khẳng định rằng kiến thức của khoa học mới chỉ có một phần, và chỉ mới bắt đầu. Trong phạm vi mô hình của các vòng tròn, kiến thức về vật chỉ là vòng tròn nhỏ trong quỹ đạo vì nó nằm trong giới hạn của năm giác quan và không chú ý đến giác quan thứ sáu (tâm). Vượt trên những giác quan, chúng ta tiến đến thế giới ký hiệu, chứng minh bằng toán số, trong sự tương quan mà Sir Arthur Edlington đã nói như sau:

" Chúng ta được biết sự khảo sát về thế giới bên ngoài bằng những phương pháp của các khoa học về vật lý không dẫn dến một sự thật cụ thể mà chỉ mang lại cái bóng của thế giới ký hiệu. "

Một nhà vật lý trứ danh khác là ông Max Planck đoạt giải thưởng Nobel về Vật Lý năm 1918, được coi như cha đẻ của Thuyết Lượng Tử Quantum hiện đại, có tuyên bố là không bao lâu nữa một trong những huyền bí khoa học được giải quyết thì một thế giới khác sẽ xuất hiện vào vị trí của nó. ông thừa nhận những giới hạn của chân lý khoa học với những lời rõ ràng:

"...Khoa học không thể giải quyết cái bí ẩn chủ yếu của thiên nhiên. Đó là vì, trong phân tách cuối cùng, chính chúng ta là một phần của thiên nhiên cho nên chúng ta là một phần của bí ẩnchúng ta đang cố gắng giải quyết."

Một khoa học gia khác còn đi xa hơn nữa viết:

"... một thành quả nổi bật nhất về vật lý ở Thế Kỷ Thứ Hai Mươi không phải là Thuyết Tuơng Đối với sự gắn bó của không gianthời gian vào nhau, hay thuyết lượng tử với cái 'không' hiển hiện của định luật nguyên nhân, hay sự phân tích nguyên tử với kết quả sự vật không phải thấy chúng là như vậy; mà đó là sự công nhận chung quát chúng ta chưa tiến đến sự khám phá ra chân lý tuyệt đối."

Vậy nên kiến thức mới đạt đến giai đoạn đó! Đây là sự tiến bộý nghĩa lý nhất của khoa học: sự nhận thức bất lực trong việc tiến tới chân lý. Tất cả mà khoa học có thể đạt được chỉ là cái bóng của thế giới ký hiệu. Nếu khoa học chấp nhận tình trạng này đã đến lúc phải chọn một con đường mới: hoặc định rõ lại phạm vi của mình, hoặc mở rộng lãnh vực nghiên cứu hầu đạt tới hoàn toàn chân lý của thiên nhiên.

Nếu khoa học mãn nguyện tự giới hạn vào phạm vi nguyên thủy, khoa học sẽ trở thành một lãnh vực chuyên môn khác không thể nhìn thấy toàn bộ bức tranh của sự vật chúng như thế nào. Nếu mặt khác, khoa học quả thật muốn dẫn dắt nhân loại đến sự hiểu biết thực sự của thiên nhiên, khoa học phải mỏ rộng lãnh vật về tư tưởng, định rõ lại ý nghĩa căn bản, và bước ra khỏi giới hạn hiện tại.

THẾ GIỚI VẬT CHẤT: Việc Làm Không Hoàn Tất Của Khoa Học

Ngày nay, cả đến trong thế giới về vật thể chúng ta đã nói, khoa học chuyên môn, chân lý căn bản v?n vượt qua sức mạnh của khoa học giải thích. Vẫn còn nhiều điều khoa học không giải thích nổi, hay đã có lần tưởng là thông suốt nhưng rồi lại không đứng vững.

Một thí dụ về 'Quart' (Cực Vi Trần). Quart là căn bản hay thành phần cấu tạo nhỏ nhất, nhưng chưa hẳn đã là đúng vì có một khám phá khác về một hạt phân tử căn bản (Lân Trần) ở khắp nơi. Cho nên Quart vẫn là một vấn đề hoài nghi. Lúc này, ta tin tưởng vào một hạt phân tử căn bản, nhưng có một số người vẫn hoài nghi phải hay không phải, hoặc có hay không một hạt phân tử căn bản hơn và nó hiện hữu khắp nơi.

Quanta (Lượng Tử) cũng trong tình trạng y hệt. Quanta là đơn vị nhiệt lương căn bản, nhưng rồi những đon vị căn bản nhiệt lượng này không thể là không bị bác, được biết là hiện hữu, chúng vẫn chỉ là được hiểu hay tin tưởng có hiện hữu.

Chúng ta vẫn chưa chắc chắn vật hay nhiệt năng là hai mặt của một sự vật. Nếu là trường hợp này, làm sao chúng có thể hoán chuyển? Cả về ánh sáng mà các khoa học gia đã dầy công nghiên cứu vẫn chưa định nghĩa được rõ ràng. Cái gì là bản chất căn bản của ánh sáng? Điều này vẫn coi như là những huyền bí sâu xa của khoa học. Ánh sáng là một nhiệt năng vừa là một làn sóng vừa là một phân tử. Tại sao nó lại như thế? Và làm sao có thể tốc độ của nó giữ nguyên khi trong Thuyết Tương Đối, cả đến thời gian có thể bị giãng ra và co lại?

Lãnh vực điện-từ là một huyền bí khác, một nguồn năng lượng khác chưa được định nghĩa rõ ràng là làn sóng hay một phân tử. Ánh sáng vũ trụ từ đâu đến? Chúng ta không biết. Cả đến sức hút (hấp dẫn) vẫn chưa hoàn toàn hiểu được rành rẽ. Nó hành hoạt như thế nào? Chúng ta không biết. Và Thuyết Tuơng Đối nói cho chúng ta biết khối không gian-thời gian có thể thiên lệch. Sao lại như vậy? Quả là khó khăn cho một người bình thường hiểu được những việc này.

Tất cả trong tất cả, khoa học chưa biết rõ ràng làm sao vũ trụđời sống xuất hiện thế nào. Điểm chủ yếu của sự nghiên cứu trong khoa học là nguồn gốc vũ trụ và sự ra đời. Ngày nay, Thuyết Big Bang là mốt thời trang. Nhưng Big Bang đã xuất hiện như thế nào? Nguyên tử khởi thủy đến từ đâu? Những câu hỏi nêu ra bất tận. Ngay cả đến câu hỏi 'Đời sống là gì?' vẫn là một bí ẩn.

Nói tóm lại, chúng ta có thể nói bản chất của sự thật trên mức độ căn bản vẫn vượt qua phạm vi nghiên cứu. Một số khoa học gia đã nói không có cách chi khoa học có thể trực tiếp biết các điều này.

Có thể nói do bẩm sinh (tự nhiên) nếu chúng ta chỉ giới hạn công cuộc nghiên cứu vào thế giới vật chất, chúng ta không thể đạt được sự thật căn bản. Cả đến sự thật căn bản nhất về vũ trụ mặt vật lý không thể hiểu được bằng cách chỉ nghiên cứu một mặt, thế giới vật chất, vì thực ra tất cả mọi sự vật trong vũ trụ đều tương quan lẫn nhau. Đã tuơng quan lẫn nhau, nhìn vào một mặt không thể tiến tới câu trả lời dứt khoát. Sự thật về mặt kia cũng phải được xét đến, vì mảnh vụn còn lại của bí ẩnthể hiện hữu phía mặt kia sự thật, phía mặt đã không được lưu ý tới.

Khi khoa học đạt tới điểm này trong công cuộc nghiên cứu, khoa học bắt buộc sẽ lưu ý vào việc trả lời các vấn đề về tâm. Ngày nay chúng ta có thể nhìn thấy nhiều nhà khoa học, vật lý, bắt đầu quay lại và chú ý vào tâm xem nó hành hoạt ra sao.

Một số người nói rằng cả đến Thuyết Tương Đối cững đơn giản chỉ là một hệ thống triết lý, một sản phẩm của tư tưởng, một quan niệm. Không gianthời gian tùy thuộc vào thức, tâm. Sự nhận thức trần cảnh của con người về hình thể và kích thước của vật thể chỉ là sự hành hoạt của giác quan, mà cũng tùy thuộc vào tư tưởng. Chúng là sự nhận xét của tâm, không phải chỉ là một ấn tượng qua năm giác quan. Mắt nhìn sắc (hình thể), nhưng nó không biết kích thước và hình dáng. Sự hiểu biết về kích thước và hình dángchức năng của tâm. Cho nên kiến thức từ năm giác quan chưa phải là tận cùng của vật thể.

Cái gì biết khoa học? Tâm. Nhưng khoa học chưa biết bản chất của tâm này. Nếu khoa học muốn biết chân lý rốt ráo, khoa học phải biết tâm. Thời gian gần đây vấn đề quan sát viên và người được quan sát đã sôi nổi. Chúng là hai khác nhau hay chúng chỉ là một?

Một số khoa học gia bắt đầu thấy bối rối về bản chất của tâm và cố gắng xác định xem tâm đúng là gì. Có phải tâm chỉ là một sự kiện trỗi lên trong sự hành hoạt của vật, giống như một máy điện toán? Rồi chúng ta có những câu hỏi phải chăng máy điện toán có tâm. Rất nhiều sách đã được viết về vấn đề này. Chúng tôi đã được đọc một cuốn của Penrose là một cuốn sách thuộc loại sách bán chạy nhất trong nước. ông kết luận rằng máy điện toán không thể có tâm được.

Trong bất cứ trường hợp nào, hoài nghi vẫn còn không thể bị xua tan cho đến khi nào khoa học chính thức nhận tâm trong lãnh vực của mình. Chẳng bao lâu vấn đề tâm và vật là một hay là hai riêng rẽ. Vấn đề này đã có từ thời Đức Phật, và đề cập đến trong những câu hỏi mà Đức Phật không trả lời chẳng hạn như:'Có phải đời sống và thân là một hay khác biệt?'

Ngày nay, các nhà lãnh đạo lãnh vực khoa học dường như chia thành bốn nhóm chính về lý thuyết hay phương thức nhận xét về bản chất của sự thật.

Nhóm thứ nhất được gọi là nhóm chính thống, giữ vững lập trường là khoa học cuối cùng có thể trả lời được tất cả các câu hỏi, và chỉ có khoa học là phương cách duy nhất có thể thực sự đạt được sự hiểu biết sự thật.

Nhóm thứ hai, một nhóm của khoa học gia 'mới' thừa nhận khoa học không thể giải thích sự thật của tâm, nhưng họ nghĩ là cả hai phía vẫn được phép tiếp tục công trình nghiên cứu độc lập. Nhóm này không đồng ý với nhóm tin tưởng chỉ có vật lý hay cả đến các nhà vật lý 'mới' có khuynh hướng hội nhập vật lý với những tôn giáo Đông Phương.

Nhóm thứ ba là nhóm với những nhà vật lý mới tin tưởngvật lý tương hợp với các tôn giáo Đông Phương. Họ tin là tôn giáo Đông Phương giúp việc giải thích bản chất của sự thật, và hướng dẫn vật lý phát triển trong tuơng lai. Điển hình trong nhóm này là Fritjol Capra, mặc dù ý kiến của Capra không được chấp nhận bởi đa s? các nhà vật lý học trên thế giới.

Nhóm thứ tư là một nhóm với các nhà vật lý mới nhưng nhóm này giữ vững lập trường thế giới vật chất là một trình độ của sự thật dung chứa cảnh giới của tâm. Nhóm này tức mẫu I như chúng tôi đề cập ở phần trên quỹ đạo với cái vòng tròn nhỏ bên trong.

Tất cả là vấn đề thuộc khoa học và khoa học phải tự lựa chọn. Chúng tôi không muốn đánh giá tại đây, và xin đề cập tới một đề tài mới. Bây giờ chúng tôi muốn đi vào thế giới của tâm, và đặc biệt những giá trị mà khoa học chưa nghiên cứu. Vì thì giờ có hạn nên chúng tôi chỉ nêu một thí dụ và đây vấn đề đạo đức.

ĐẠO ĐỨC: Một Chân Lý Chờ Đợi Sự Xác Minh

Đạo đức là một trong những điều chúng tôi gọi là 'giá trị', đó là điều liên quan đến thiện và ác. Thiện và ác là các giá trị hay nguyên tắc. Đạo đức là một đề tài rộng lớn và quan trọng, một vấn đề thường được coi như thuộc tôn giáo, nhưng nơi đây, chúng tôi coi nó liên quan đến khoa học.

Một số người đi xa hơn nữa nói thiện ác hoàn toàntính cách tục lệ xã hội, một vấn đề tùy theo sở thích. Họ tin rằng thiện và ác có thể giải thích theo đường lối mà họ thích. Ý kiến như vậy tưởng như bao gồm một số biện pháp của sự thật, khi chúng ta phải làm thế nào khi thấy một số hành động tại một số xã hội được coi như thiện, nhưng tại m?t số các xã hội khác lại coi như ác.

Tuy nhiên loại nhận thức này phát xuất từ sự mơ hồ về những yếu tố gây nên. Nguyên do từ:

1. Sự thất bại không phân biệt được giữa đạo đức và tục lệ.
2. Sự thất bại thấy sự tương quan của đạo đức liên kết với sự thật.

Do vậy chúng ta thấy ba điểm để xét: sự thật, đạo đức và tục lệ. Chúng ta phải hiểu rằng sự khác biệt và sự tương quan giữa ba điều này. Chuỗi yếu tố gây nên liên hệ hết, từ phẩm tính của thiện và ác là những điều kiện thực của chân lý, hướng ra ngoài để trở thành hành động hay lời nói thiện hay ác, chúng là đạo đức, và do sự liên hệ ra ngoài một lần nữa trở thành luật và tục lệ xã hội, những điều ấy trở thành tục lệ.

Hệ thống của sự thật, đạo đứcluật lệ rất tương tự như hệ thống khoa học. Căn bản của khoa học, Khoa Học Thuần Túy, là sự thật. Nằm trên căn bản này, chúng ta có Khoa Học Thực Dụng và kỹ thuật. Nếu Khoa Học Thuần Túy lầm lỗi, Khoa Học Thực Dụng và kỹ thuật đau đớn. Từ Khoa Học Thực Dụng và kỹ thuật, chúng ta tiến đến mức độ thứ ba, đó là hình thức kỹ thuật áp dụng. Những hình thức này có rất nhiều và thay đổi. Một trong những lý do này là kỹ thuật, trong đường lối hữu hiệu nhất, tìm cách làm việc với các định luật thiên nhiên. Những hình thức kỹ thuật này thay đổi cho phù hợp vì chúng ít nhiều rất thích hợp với định luật thiên nhiên. Những hình thức kỹ thuật thích hợp nhất với định luật thiên nhiên, hoạt động như các tần số cho chức năng tốt nhất của những định luật liên hệ, trở thành hiệu nghiệm nhất và ngược lại.

Chân Lý có thể so sánh với Khoa Học Thuần Túy.
Đạo Đức có thể so sánh với Khoa Học Thực Dụng và kỹ thuật.
Điều lệ hay tục lệ có thể so sánh với những hình thức áp dụng bởi kỹ thuật.

Các xã hội quyết định tục lệ hay điều lệ để tự điều hành. Đó là tục lệ quyết định tùy theo sở thích. Thí dụ, ở Thái Lan theo luật lệ, xe phải được lái phía bên trái đường, trong khi ở Hoa Kỳ, xe cộ phải đưọc lái phía bên tay mặt đường. Các quốc gia quyết định các luật lệ khác nhau. Bây giờ, luật nào tốt, luật nào xấu? Thái Lan có thể nói người Mỹ xấu vì họ lái xe bên mặt không, hay người Mỹ có thể nói ngược lại không? Lẽ dĩ nhiên là không. Những luật lệ này là những tiêu chuẩn của mỗi quốc gia, và mỗi quốc gia tự do ấn định tiêu chuẩn của mình. Việc này là tục lệ.

Tuy nhiên, tục lệ không đơn giản là một vấn đề sở thích, có những lý do đằng sau nó. Cho dù là những vấn đề rất tầm thường như quyết định phải lái xe phía bên nào đường, phải có một mục đích trong tâm. Mục đích đó là gì? Mục đích đó là tạo được trật tự, hòa hợp trên đường, và phúc lợi của người dân trong phạm vi xã hội. Đó là điều mà cả hai quốc gia mong muốn, và đó là mối quan tâm của đạo đức. Xã hội Hoa Kỳ muốn phẩm tính này, và xã hội Thái cũng vậy. Cho dù tục lệ khác biệt, phẩm tính đạo đức mong muốn của cả hai quốc gia đều giống nhau. Trong thí dụ này, chúng ta có thể nhìn thấy sự khác biệt trong việc làm luật lệ, nhưng cốt tủy, trong ý nghĩa đạo đức, có sự kiên định trước sau như một.

Bây giờ vấn đề nêu lên, luật lệ nào đem kết quả tốt hơn? Đó là điểm chủ yếu. Ta có thể hỏi luật lệ nào đem trật tựhòa hợp hơn giữa việc lái xe bên phải của Mỹ và lái xe bên trái của Thái Lan. Có một số ý kiến khác biệt chính trong các luật lệ này, nhưng không có nghĩa là xã hội quyết định các luật lệ do sở thích.

Đó là sự tuơng quan giữa đạo đức và tục lệ hay luật lệ. Luật lệ tạo ra để mang kết quả cho đạo đức. Trong ngôn ngữ nhà tu hành Phật Giáo, các thầy tu đơn giản nói "Luật là để phát triển giới hạnh" ... Luật bao hàm ý nghĩa về quy luật và các điều lệ của xã hội, nhưng mực đích của những luật lệ ấy là giới hạnh, đạo đức.

Có một ngoại lệ trong những trường hợp luật lệ đương nhiên được làm ra để đem lợi ích cho một thành phần nào đó hay cho một thiểu số được chọn lựa. Thí dụ, có nhiều lần chúng ta nghi ngờ một số luật được tạo ra để bảo vệ quyền lợi của một nhóm được chọn lựa. Trong truờng hợp này chúng ta nói có sự thối nát trong phạm vi ban hành luật lệ, hậu quả làm suy đồi đạo đức. Khi gốc rễ của cấu trúc luật lệ bị mục nát, rõ ràng không thể có được kết quả tốt. Dù vậy, nhiều xã hội quyết định nhiều quy luậtđiều lệ với hậu ý trong sạch là tạo kết quả đạo đức.

Vì có mục tiêu chung này là đạo đức, nhưng hình thức của các điều lệ đưa đến kết quả khác biệt, chúng ta phải biết làm sao phân biệt rõ ràng giữa đạo đức và tục lệ. Chúng ta có thể nhìn thấy một số nhiều các dị biệt trong tục lệ, tập quán và truyền thống ở những xã hội khác nhau - thí dụ như tập quán gia đình. Trong xã hội này, một người đàn bà được phép có nhiều chồng, người đàn ông được phép có nhiều vợ, trong khi ở những xã hội khác, tập quán lại khác hẳn. Tuy nhiên, trên hết, mục đích ở đây là gì? Mục đíchtrật tựhòa hợp trong phạm vi gia đình. Đó là mục đích của họ, và đó là đạo đức.

Tuy nhiên trong việc quyết định luật lệ cho xã hội, người dân thay đổi mức độ thông minhtrí tuệ, có nhiều ý định, đôi khi thành thực, đôi khi không thành thực. Xã hội có nhiều môi trường khác nhau, lịch sử khác nhau. Với quá nhiều những yếu tổ thay đổi, kết quả phạm vi đạo đức cũng khác biệt, tùy theo trường hợp nhiều hay ít hữu hiệu. Thỉnh thoảng, những điều lệ này cần phải xét lại giá trị của nó. Tục lệ gắn chặt với đến hoàn cảnh đặc biệt, việc xét lại phải tùy theo thời gian và địa điểm. Thời gian và địa điểm là mối quan tâm của tục lệ, nhưng mục đích đạo đức vẫn chung cho tất cả.

Cho nên nhìn vào tình hình bằng một phương cách đứng đắn, vẫn thấy có những sai biệt trong những điều lệ áp dụng, chúng ta có thể nhìn thấy kết quả những nỗ lực của nhân loại để tạo dựng một xã hội hòa hợp. Đó là, tục lệ không phải là kết quả cuối cùng, nhưng chỉ là phương tiện áp dụng bởi con người để đạt mức độ đạo đức phổ thông, ít nhiều hữu hiệu, tùy vào trí thức và sự thành thật của người quyết định tục lệ ấy.

Mang trong tâm sự hiểu biết trên đây, chúng ta có thể tránh được niềm tin sai lầmthiện ác chỉ là tục lệ xã hội, hay được ban hành do sở thích. Chúng ta phải nhìn vào các điều lệnhân loại cố gắng tìm đạo đức, để đạt được lòng tốt chân thật. Dù sao, những điều lệ có thể hữu dụng hay vô hiệu quả, mục đích của chúng ta vẫn là một đạo đức.

Sự thành công của điều lệ liên hệ chặt chẽ đến tiêu chuẩn đạo đức hiện đại trong phạm vi những người quyết định điều lệ ấy, dù những người ấy đã có các quyết định một cách thông thái hay không.

Bây giờ vấn đề phải hay không phải đạo đức là một điều kiện thực sự, chúng tôi nhắc đến nguyên tắc của đạo đức căn cứ trên sự thật hay chân lý. Đó là, đạo đức phải phù hợp với tiến trình nhân quả, hay nguyên nhânđiều kiện. Trong lãnh vực tục lệ, bất cứ lúc nào điều lệ được tạo ra mang kết quả đạo đức tốt, chúng ta nói điều lệ ấy hữu ích. Thí dụ, nếu chúng ta điều hành xe phải chạy bên phía trái hay phía bên mặt đuờng, và điều lệ này mang lại trật tựhòa hợp, chúng ta nói điều lệ này đạt được mục đích.

Sự thật, đạo đức và tục lệ là những phẩm tính trừu tượng. Vì đạo đức liên hệ chặt chẽ với sự thật, đạo đức tiếp theo là một yếu tố trong cả dòng suối nguyên nhânđiều kiện. Nguyên nhânđiều kiện liên quan đến cách cư xử của con người rất phúc tạp, khó mà có thể tiên đoán được như tiên đoán thời tiết!

Nếu chúng ta không hiểu và nhìn thấy sự tương quan và liên hệ giữa sự thật, đạo đức và tục lệ, chúng ta không thể xét được những giá trị, tài sản tinh thần, và thấy vị trí đúng của chúng trong phạm vi định luật thiên nhiên, hoạt động theo nguyên nhânđiều kiện.

'CÁI GÌ CHÂN LÝ', 'CÁI GÌ PHẢI RA SAO'

Bây giờ xin để chúng tôi so sánh một lần nữa giữa khoa học và Phật Giáo. Như chúng tôi đã nói trước đây, khoa học không bao gồm hoàn cảnh của con người trong việc nghiên cứu, vì khoa học đổi hướng nhằm vào vật chất.

 

Phật Giáo tìm hiểu các định luật thiên nhiên, và đem áp dụng chúng cho một viễn cảnh đạo đức. Khi người ta thực hành đúng theo đạo đức, họ sẽ nhận đưọc kết quả phù hợp với định luật thiên nhiên nhân quả, đạt được một đời sống tốt đẹp, mục đích của họ. Điều này cho chúng ta một chu kỳ với ba giai đoạn: 1) Biết hay nhận thức được chân lý, 2) thực hành theo đường lối đạo đức; 3) đạt được đời sống tốt đẹp.

Khoa học biết những sự thật của thiên nhiên, nhưng chỉ về mặt vật chất, và đem kiến thức này cho kỹ thuật, đạt một đời sống dư dật theo mục đích.

Con đường dẫn đến một đời sống lành mạnh, con đường kia dẫn đến một đời sống dư dật; một phương thức giải quyết với bản chất của con người, phương thức kia giải quyết với bản chất của vật chất. Khoa học không liên hệ đến chân lý của đạo đức, nhưng vì giải quyết với thế giới vật chất nên chỉ liên hệ đến kỹ thuật.

Thông thường khoa học chính nó chỉ quan tâm đến câu hỏi 'Cái gì' và coi thường với câu 'Ra sao', mối quan tâm của giá trị hay đạo đức nằm vượt qua phạm vi của nó. Khoa h?c không nhìn thấy đạo đức căn cứ vào sự thật vì khoa học không nhìn thấy sự liên hệ giữa 'Cái Gì' và 'Ra Sao' . Trên bình diện vật chất, khoa học có câu hỏi 'Ra Sao' dù không biết, nhưng câu hỏi chỉ để dành cho cho kỹ thuật.

Thí dụ, Khoa Học Thuần Túy nói với chúng ta nước sẽ đông lại khi độ nhiệt xuống không độ Celsius. Nguyên tắc và phương cách phải phù hợp như vậy. Cho nên chúng tôi nói Khoa Học Thuần Túy tìm kiếm chân lý của thiên nhiên, trong khi Khoa Học Thực Dụng mang kiến thức đó thành hiệu quả.

Khoa học tự nó áp dụng những vấn đề trên bình diện vật chất, nhưng về những câu hỏi đạo đức, khoa học im lặng. Chẳng hạn chúng ta nhìn thấy một hố sâu lớn đầy lửa, với nhiệt độ lên tới cả ngàn độ. Chúng ta nói với một người nào đó: "Cơ thể của con người chỉ có thể chịu đựng được đến một nhiệt độ nào đó thôi. Nếu cơ thể vào trong lửa ấy ắt phải cháy thành than". Đó là sự thật. Bây giờ thí dụ chúng ta nói: "Nếu bạn không muốn cháy thành than, bạn không nên vào hố lửa ấy". Trong trường hợp này, trình độ khoa học nói cho chúng ta biết hố ấy nhiệt độ là bao nhiêu, và cơ thể con người không thể chịu nổi nhiệt độ như thế. Đạo đứcquy luật thực hành nói: "Nếu bạn không muốn bị cháy thành than, đừng vào lửa đó".

Cũng giống như vậy, kỹ thuật phải căn cứ trên những sự thật của Khoa Học Thuần Túy, đạo đức phải căn cứ trên sự thật.Giống như bất cứ kỹ thuật nào mà không xây dựng trên sự thật của khoa học thì không thể thực hiện được, cũng vậy, bất cứ đạo đức nào không xây dựng trên chân lý thiên nhiên thì đạo đức ấy sai. Vấn đề đạo đức gồm cả "Ra Sao" và "Cái Gì", trong đó nói đến sự thật của bản tính con người, khía cạnh của sự thật thiên nhiên mà khoa học không chú ý tới. Vì lý do đó, sự hiểu biết đúng sự thật, gồm sự hiểu biết về bản tính con người, thì không thể có đư?c nếu không có sự hiểu biết rõ ràng đạo đức xác thật. Câu hỏi là, loại sự thật nào, và bao nhiêu sự thật, và mức độ nào, có đủ để mang lại một sự hiểu biết của đạo đức thuần khiết?

CHÂN LÝ THẬT SẼ LÀ NỀN TẢNG CỦA KHOA HỌC

Lãnh vực khoa học ngưng lại ở thế giới vật chất, nó không bao gồm con người. Vì lý do đó, khoa học không có lời khuyên nào cho con người phải sống và cư xử ra sao, nó cũng không đả động gì đến vấn đề đạo đức. Nhưng rồi vì tâm mà khoa học lan chàn và tiến bộ đến mức có được. Nguồn gốc và cảm hứng về việc sanh sản và sự lớn mạnh trong khoa học là sự ham muốn biết sự thật, cùng với sự nhận thức trong định luật thiên nhiên, là những phẩm hạnh tinh thần. Ngay cả đến những giá trị thâm nhập vào khát vọng ở thời gian cuối cùng, chẳng hạn như khát vọng muốn chinh phục thiên nhiên, cũng đều là tiến trình tinh thần.

Không những khát vọng kiến thức sự nhận thức mới nói trên đây, nhưng ngay cả đến sự khám phá vĩ đại của khoa học, cũng là những sản phẩm của tâm. Một số khoa học gia có phẩm tính mà chúng ta gọi là 'trực giác', và có thể vạch ra các sự thật mà họ khám phá ra được do con mắt của tâm trước khi đem kiểm chứng trong thế giới vật lý. Trước nhiều những khám phá quan trọng trong khoa học, ở một mức độ nào đó, trực giác liên hệ... khoa học gia nhìn thấy điều gì đó do con mắt của tâm, và điều này trở thành sáng kiến dẫn đến việc nghiên cứu vấn đề.

Không có phẩm tính của trực giác và thấy trước, khoa học cũng chỉ là một ngành kiến thức nào đó không căn bản, hay rộng ra là một vấn đề của sự phỏng đoán. Khoa học sẽ thiếu đường hướng và mục tiêu. Trực giác và thấy trước đóng vai trò chính yếu trong lịch sử khoa học. Với nhiều khoa học gia lỗi lạc, trực giác này liên hệ đến việc tiến hành tạo được các khám phá quan trọng nhất. Sự gợi ý của một số luồng tư tưởng hay nghiên cứu, phát xuất từ tâm khoa học gia, khởi đầu hệ thống lý luận, công thức của giả thiết và thử nghiệm, đưa đến kết quả của một lý thuyết mới.

Tất cả những tiến bộ khoa học đạt được đến nay, đều xuất phát từ niềm tin, nhận thức, khát vọng muốn biết, trực giác vân vân...Trong tâm của những khoa học gia lỗi lạc nhất, những người đã đạt được những khám phá quan trọng nhất, đều do các phẩm tính có nhiều trên đây.

Quan sát cũng bắt đầu bằng tư tuởng, tư tưởng tạo con đường điều tra, và bắt buộc quan sát vào khuôn khổ thích hợp. Thí dụ, Newton thấy trái táo rơi và hiểu được Định luật của trọng lực. Theo chuyện, Newton khi nhìn thấy trái táo rơi, ông nhận thức được, nhưng thực ra ông đã suy nghĩcân nhắc từ nhiều tháng ở thời đó về bản chất của sự hấp dẫn. Đó là một tiến trình tinh thần của tâm ông tiến đến cao độ nhận thức được khi nhìn thấy trái táo rơi.

Đôi khi việc này xẩy ra với chúng ta. Chúng ta có một số khó khăn đặc biệt nào đó đã từ lâu chúng ta không tìm được cách giải quyết, rồi chúng ta ngồi im lặng, bỗng nhiên câu trả lời lóe lên trong tâm trí của chúng ta. Những câu trả lời này không phải tự nhiên phát xuất bừa bãi hay ngẫu nhiên.Thực ra, tâm đã hoạt động trên một mức độ tinh tế. Sự nhận thức là kết quả của tiến trình nguyên nhânhậu quả.

Tâm, do niềm tinđộng cơ thúc đẩy, là nguồn gốc của khoa học, qua trực giác và thấy trước là lực do đó khoa học có thể tiến triển và qua mục đíchmục tiêu hình dung mong mỏi trong tâm, đó là đường hướng cho khoa học tiến bước trong tuơng lai. Sự tìm kiếm chân lý căn bản có thể thực thi vì tâm nhận thức những chân lý ấy có hiện hữu.

Tới điểm này chúng tôi xin đưa ra tên một khoa học gia lỗi lạc đã khiến tôi có ý niệm về đề tài nói chuyện này. Không ai khác lạ hơn đó là khoa học gia Albert Einstein. Tuy nhiên ông không nói đúng những lòi tôi dùng. Tôi đã chú giải dài dòng.

Điều mà Einstein có nói là:

"... trong thời đại vật chất này của chúng ta, những khoa học gia đứng đắn chỉ là những người đạo lý thâm sâu.."

Einstein cảm thấy trong thời đại này, rất khó khăn tìm thấy người có tôn giáo. Chỉ có những khoa học gia nghiên cứu khoa học với một tâm thanh tịnhđạo lý thực sự. ông tiếp:

"...nhưng khoa học chỉ có thể tạo ra bởi những người thấm nhuần với khát vọng tìm chân lýhiểu biết...những cá nhân ấy mà chúng ta hàm ơn những thành quả sáng tạo khoa học của họ, tất cả những người đó thấm nhuần với nhận thức tôn giáo thực sự là vũ trụ của chúng ta là một thứ gì toàn hảo khả thi cho công cuộc nghiên cứu kiến thức."

Sự ham muốn biết sụ thật, và niềm tin đàng sau thiên nhiên có những định luậtchân lý bất biến trên toàn cõi vũ trụ - Điều này là cái mà Einstein gọi là cảm nghĩ đạo lý hay rõ ràng hơn 'cảm nghĩ tôn giáo vũ trụ' . Rồi ông lại tiếp:

"...cảm nghĩ tôn giáo vũ trụ là động cơ mạnh mẽ và cao thượng cho công cuộc nghiên cứu khoa học.'

"... Phật Giáo, như chúng ta đã được biết từ những tác phẩm tuyệt tác của Schopenhaumer, bao gồm yếu tố chứng tỏ mạnh mẽ điều này ..."

Einstein nói Phật Giáo có một mức độ cao của cảm nghĩ tôn giáo vũ trụ, và cảm nghĩ tôn giáo vũ trụ là nguồn gốc hay hạt giống của công cuộc nghiên cứu khoa học. Cho nên quý vị có thể tự quyết định về nhan đề mà chúng tôi dùng cho bài nói chuyện có đúng hay không.

Chúng tôi có trình bầy trong một đường lối nào mà có thể nói Phật Giáo là nền tảng của khoa học, nhưng xin đừng quá chấp vào sự quan trọng của ý kiến này, vì chúng tôi không hoàn toàn đồng ý với quan điểm của Einstein. Sự không đồng ý của chúng tôi không phải là điều mà ông ta nói mà là ông nói quá ít. Cái mà ông Einstein gọi là 'cảm nghĩ tôn giáo vũ trụ' chỉ là một phần của cái cảm nghĩ tôn giáo, vì tôn giáo bao giờ cũng quay về với con người, đến bản chất của con người, gồm cả con người phải đối xử với thiên nhiên ra sao, bên trong cũng như bên ngoài. Chúng tôi thấy trong lời nói của Einstein không rõ ràng bao gồm sự tự biết mìnhlợi ích cho con người. Tuy nhiên có thể là từ những lời của Einstein mà chúng ta có thể nhìn thấy ông cảm thấy rễ của khoa học trong sự ham thích của con người về kiến thức, và thừa nhận nó trong thứ tự của thiên nhiên.

Nhưng bây giò tiến tới điểm này, chúng tôi đã nói chúng tôi không muốn quý vị quá lo lắng phải hay không phải Phật Giáo là nền tảng của khoa học hay không. Thực ra phải nên thay đổi nhan đề bài nói chuyện này, chẳng hạn như .."Khoa học phải như thế nào mà Phật Giáo lại là nền tảng của nó". Điều này sẽ cho chúng ta một vài viễn cảnh mới để nghĩ tới. Câu "Phật Giáo là nền tảng của khoa học", chỉ là một ý kiến, và một số người có thể cho là câu ấy có tính cách tự cao tự đại. Và việc này sẽ chẳng đưa chúng ta đến đâu. Nhưng nếu chúng ta nói: "Khoa học phải như thế nào để có thể đặt nền móng trên Phật Giáo", câu này sẽ có tính cách xây dựng hơn, cho chúng ta một số điểm thực tiễncụ thể để xét.

Điều này là một câu hỏi quan trọng, một câu hỏi đòi hỏi một số phê phán. Chúng tôi có thể có câu trả lời, và chúng tôi cố gắng giữ trong phạm vi những điểm đã được đề cập và câu trả lời dùng như một loại tóm lược.

Trước tiên chúng ta phải mở rộng nghĩa của từ ngữ 'tôn giáo' hay cảm nghĩ tôn giáo' để có thể đối chiếu với Phật Giáo.

A) Những từ ngữ 'cảm nghĩ tôn giáo vũ trụ' bao gồm cả thể giới thiên nhiên bên ngoài lẫn bên trong con người, hay cả vũ trụ vật lý, trừu tượng, hay tinh thần gồm cả những giá trị.

B) Sự định nghĩa về khoa học, bắt nguồn từ sự khao khát muốn biết sự thật phải được bổ túc bởi lòng ham muốn đạt được điều thiện cao nhất mà Phật Giáo gọi là 'tự do từ sự bất toàn vẹn của con người'

Tại điểm A chúng ta mở rộng định nghĩa về thiên nhiên phải được thực hiện. Ở điểm B, chúng ta lập lại những giá trị ấy tương hợp với điều thiện cao nhất, bảo đảm khao khát sự thật trong sạchrõ ràng, không cho cơ hội nhũng giá trị thấp kém làm hư nguyện vọng của chúng ta.

Với hai điểm trên đây trong tâm, bây giờ chúng ta có thể trả lời: "Khoa học đồng ý với Phật Giáo là khoa học mong muốn hiểu sự thật tự nhiên đi đôi với việc phát triển con người và sự đạt được điều thiện cao nhất" Hay chúng ta có thể nói: "Khoa học đặt nền móng trên Phật Giáo phát xuất từ việc mong mỏi kiến thức về thiên nhiên, cùng với sự ham thích muốn đạt điều thiện cao nhất, nền tảng xây dựng sự phát triển con người".

Loại định nghĩa này dường như bao quanh vào Khoa Học Thực Dụng, nhưng không hẳn là như thế. Từ một viễn cảnh, khoa học tự nhiên trong thời đại cuối bị ảnh hưởng bởi động lực ích kỷ như đã nói trước đây, không được tốt lắm. Vì lý dochúng tôi đề nghị những sự khích lệ xen vào để lựa chọn hầu ngăn ngừa nhũng gì trước đây từ phát xuất, thay thế ham thích chinh phục thiên nhiên và sản xuất thật nhiều của cải vật chất với nguyện vọng thoát khỏi khổ đau.

Lập lại nghĩa trên, chúng ta có thể nói "Khoa học đạt được kiến thức hiểu biết thật sự của sự thật sẽ là sự hợp nhất của những khoa học vật lý, khoa học xã hộinhân loại. Tất cả mọi khoa học đều liên hệ lẫn nhau và như một". Hay nói một cách khác: "Khi khoa học mở rộng phạm vi định nghĩa căn bản của nó, và cải tiến kỹ thuật đề tìm tòinghiên cứu, những sự thật của khoa học xã hộinhân loại sẽ đạt được do sự nghiên cứu khoa học".

Câu này không phải là một câu nói giỡn hay cẩu thả. Ngày nay các tiến bộ của khoa học và xã hội của con người trong môi trường tổng quát cần có sự liên kết trong việc tìm kiến thức. Quý vị có thể nói thời gian đã chín mùi. Nếu chúng ta không giải quyết kịp thời trong một đường lối thích hợp, thời gian chín mùi này sẽ bị phôi pha như một trái cây quá chín. Câu hỏi là " Liệu khoa học có gánh trách nhiệm dẫn nhân loại đến sự thống nhất học hỏi này không?"

Trên mức độ thứ hai đó là nguyên tắc của sự cam kết với kiến thức đó là kiến thức của sự thật hữu ích có thể chia làm hai loại:

A) Kiến thức cần thiết, hay sự thật hữu ích, đó là kiến thức cần thiết cho một đời sống tốt đẹp mà có thể cho một con người đạt được trong phạm vi của một cuộc sống.

B) Những loại kiến thức khác không cần thiết, hay sự thật không hữu ích. Những điều ấy chưa được kiểm chứng, phải được xem xét cho đến khi được kiểm chứng, nhưng một đời sống tốt đẹp không tùy thuộc vào chúng và cũng không phải chờ đợi câu trả lời cho chúng.

Đời sống của một con người rất giới hạn và ngắn ngủi. Phẩm tính của đời sống, hay điều thiện tối thượng, là những điều phải đạt cho được của một con người trong phạm vi đời sống ngắn ngủi giới hạn này. Kiến thức khoa học có khuynh hướng nói:' Hãy chờ đến khi chúng tôi kiểm lại điều này trước đã, rồi bạn sẽ biết phải làm gì". Thái dộ này nên thay đổi, phân biệt rõ ràng giữa những loại khác biệt của kiến thức nói trên. Nếu khoa học quả là nền tảng hiểu biết của học hỏi, nó phải liên hệ đúng tới hai loại sự thật ấy.

Mặt khác, nếu khoa học tiếp tục hành hoạt như bây giờ, nó cần phải có sự bổ túc bằng sự hợp tác bởi sự tiến dẫn của Phật Giáo cho những câu trả lời về những câu hỏi đòi hỏi phải có câu trả lời ngay, hầu sự đạt được điều thiện cao nhất trong đời sống có thể thực hiện được, trong khi khoa học có thể tìm được câu trả lòi cho những câu hỏi ấy hoặc dù không trả lời được cũng không ảnh hưởng gì đến khả năng sống trong an lạchạnh phúc.

CHẤP NHẬN GIÁC QUAN THỨ SÁU

Lý do chúng tôi cần phải làm sáng tỏ những mục tiêu trung gian là nếu Khoa Học Thuần Túy không thể xác định giá trị của chính nó, nó không thể tránh được ảnh hưởng những quyền lợi khác. Những nhóm bên ngoài với quyền lợi riêng tư, đã xác định giá trị khoa học trong quá khứ, giá trị đã dẫn đến sự phá hoại thiên nhiên trong công cuộc tìm kiếm của cải vật chất. Việc này đã đem khoa học trở thành được gọi là kẻ 'phục vụ cho kỹ nghệ'. Kẻ phục vụ cho kỹ nghệ không phải là người phục vụ cho nhân loại. Trong những ngày này, một số người nói kỹ nghệ đang phá hoại nhân loại, một điểm cần được cứu xét. Nếu khoa học không tạo được giá trị cho chính mình, thì người khác sẽ tạo được.

Con người là những chúng sanhý định. Đó là một phẩm tính duy nhất của con người. Đó có nghĩa là việc tìm kiếm kiến thức không thể nào có được mà không có giá trị. Vì con người là loại chúng sinh cao nhất, có khả năng đạt đến sự hiểu biết sự thực và điều thiện tối thượng, con người nên nhận thức tiềm lực này.

Bao lâu mà con người không minh định được vị trí của mình liên quan đến giá trị, chưa hiện hữu trong phạm vi thế giới giá trị, thì khoa học sẽ có đường hướng xác định bởi những quyền lợi khác. Kết quả, khoa học gia cảm thấy bị bịp bợm và dao động trong công cuộc nghiên cứu. Bao lâu mà kỹ nghệ là minh tinh chính của xã hội, kỹ nghệ có thể ảnh hưởng rất mạnh đến khoa học, do các tầng lớp của chính phủ ảnh hưởng đến đường lối chính quyền, và do thể chế tài chánh với trợ cấp cho khoa học. Chẳng hạn, nếu một khoa học viện đệ trình một dự án nghiên cứu trong một lãnh vực đặc biệt, nhưng việc nghiên cứu này không đem lợi ích gì cho kỹ nghệ, bộ kỹ nghệ có quyền hành không ủng hộáp lực chính phủ hành động khác đi. Khi việc này xẩy ra, các khoa học gia có thể nản trí, và bỏ cuộc như Sir Isaac Newton.

Newton bị ảnh hưởng rất mạnh bởi những giá trị trong công cuộc nghiên cứu của ông. Newton khám phá ra Định Luật Trọng Lực khi ông mới có 24 tuổi. Tuy nhiên, những ý kiến của ông đã bị chống đối lúc bấy giờ. Những trường khoa học cũ chế giễu ông, làm ông đau buồn. ông đã không hợp tác với ai cả. Ngay khi ông bắt đầu việc nghiên cứu, người ta đã công kích ông, ông buồn giận và bỏ việc nghiên cứu. ông đã hoàn toàn xa lánh khoa học và không đi đâu cả trong 20 năm.

Bấy giờ Edmond Halley, khoa học gia đã tiên đoán chu kỳ của sao chổi và người ta đã lấy tên ông để đặt cho sao chổi, nhìn thấy giá trị công trình nghiên cứu của Newton, bèn tìm đến an ủi và khuyến khích Newton. Cảm dộng Newton trở lại làm việc và bắt đầu viết tác phẩm trọng yếu Philosophiae Naturalis Principia Mathematica.

Nhưng rồi, khi ông mới chỉ hoàn tất hai phần ba tác phẩm, trong thời gian hai mươi hai năm mà Newton từ chối không cho in khám phá của mình thì một khoa học gia khác hiểu được Định Luật Trọng Lực và phép tính, tuyên bố là ông mới là người khám phá ra tất cả trước Newton.

Khi Newton nghe thấy như vậy ông lại giận hờn. ông không chịu tiếp tục viết nốt tác phẩm mà ông đã viết được hai phần ba. Một lần nữa Halley lại phải đến gặp ông năn nỉ ông tiếp tục ông mới hoàn tất tác phẩm.

Thí dụ điển hình trên đây cho thấy giá trị đã lấn át một khoa học gia với hậu quả cho cả khoa học thế giới. Nếu Newton là một thiên tài, đã có một con tim mạnh mẽ, không nhượng bộ trước những đau buồn và phẫn nộ, ông có thể đóng góp nhiều hơn nữa cho thế giới khoa học, nhiều hơn những gì ông đã đóng góp. Tâm trạng của ông đã khiến ông quăng bỏ khoa học thời gian trên hai mươi năm.

Ngày nay khi lãnh vực kỹ nghệ và tài chánh có nhiều thế lực mạnh mẽ, khoa học phải đủ mạnh với giá trị của chính mình để ngăn chận các giá trị bên ngoài lấn át. Trong thời đại môi sinh bị tàn phá, một số sự thật khám phá ra bởi khoa học không gây chú ý cho một số lãnh vực kỹ nghệ và tài chánh.

Chúng ta nghe thấy những lời tuyên bố của một số nhóm các nhà nghiên cứu của Hoa Kỳ là sự kinh hoàng về nhà kính vô căn cứ, thế giới không nóng lên, do kết quả của công cuộc nghiên cứu của họ đã chứng minh được. Rồi ít lâu sau, một nhóm nghiên cứu khác nói với chúng ta là nhóm thứ nhất bị ảnh hưởng bởi tài chánh của một số lãnh vực kỹ nghệ trong việc đánh giá các kết quả của họ. Tình trạng hết súc là phức tạp. Lợi thế cá nhân bắt đầu đóng một vài trò trong việc nghiên cứu khoa học., và lệ thuộc nhiều hơn nữa vào ảnh hưởng của giá trị. Cả đến kiến thứcnghiên cứu thực thi ngày nay về tình trạng môi sinh là mối quan tâm của giá trị; đó là chuyên để thực hiện nhu cầu đặc biệt, nhưng trong trường hợp này chúng rõ ràng xác thực hay các giá trị xây dựng.

Và đến cuối cùng, đạo đức dạy các khoa học gia phải có một hoài bão trong sạch về kiến thức. Đó là sức mạnh hùng mạnh nhất mà khoa học có thể có được. Ngày nay chúng ta bao quanh bởi một thế giới dồi dào giá trị hầu hết là tiêu cực. Trong quá khứ, khoa học và kỹ nghệ cùng nhau làm việc giống như vợ với chồng. Có rất nhiều tiến bộ vĩ đại. Kỹ nghệ thúc đẩy khoa học tiến, và khoa học giúp kỹ nghệ phát triển. Nhưng trong thời đại này, vì một số quyền lợi của kỹ nghệ đã trở thành một khó khăn trong môi sinh thiên nhiên, và vì khoa học bị chất vấn về điều này, câu trả lời của một số câu hỏi đang làm cho lãnh vực kỹ nghệ bối rối. Rất cần thiết cho khoa học và kỹ nghệ phải dự phần hay ít nhất cũng chứng nghiệm sự căng thẳng trong mối tương quan với nhau. Khoa học có thể bị bắt bưộc phải có bạn mới, người bạn này sẽ giúp đỡ và khuyến khích khoa học tìm kiến thức hữu ích cho giống người.

Khi khoa học tiến tới ranh giới của tâm, câu hỏi phát xuất: "Liệu khoa học có công nhận giác quan thứ sáu và những dữ kiện đã chúng nghiệm tại đây? hay các khoa học gia tiếp tục cố gắng kiểm chứng tính khítư tưởng bằng cách nhìn vào các hóa chất tiết ra từ bộ não, hay đo đạc luồng sóng trong óc bằng một máy, và theo cách ấy là chỉ nhìn vào cái bóng của sự thật mà thôi?"

Điều này giống như nghiên cứu một viên đá từ tiếng rơi tõm xuống nước, hay từ gợn sóng lăn tăn trên mặt nước. Họ có thể đo các làn sóng tương ứng với các viên đá mọi cỡ khác nhau - nếu có một tiếng động có nghĩa là viên đá phải cùng một cỡ - họ sẽ có thể đưa và một phương trình toán học, tiên đoán cỡ viên đá, tương úng với tiếng rơi tõm vào nước, hay ước tính khối đá rơi xuống nước bằng cách đo các gợn sóng gây ra.

Có phải phương pháp nghiên cứu của khoa học về thiên nhiên đã như vậy không? Sự kiện là, họ thực ra chẳng bao giờ cầm đến một viên đá! Nếu đó là trường hợp, khoa học có thể có một cái nhìn vào một số đường lối quan sát và thí nghiệm dùng bởi một số truyền thống khác, như Phật Giáo, duy trì quan sát và thí nghiệm thực hành từ kinh nghiệm trực tiếp trong tâm trí, một đường lối có giá trị về sự tôn trọng định luật thiên nhiên.

...Không cần thiết cho khoa học phải cố tránh những giá trị. Đó là vấn đề cố gắng làm sáng tỏ các giá trị mà khoa học đã có ....



#78
tritanngo99

tritanngo99

    Đại úy

  • Điều hành viên THPT
  • 1644 Bài viết

PHẬT GIÁO NỀN TẢNG CỦA KHOA HỌC
Hòa thượng Prayudh Payutto
Tỳ kheo Thích Tâm Quang dịch


VI. MỘT VÀI ĐỀ NGHỊ ĐỂ CẢI TIẾN

QUÁ ÍT

Bây giờ chúng tôi hầu như gần kết thúc, chúng tôi muốn có một vài đề nghị làm sao khoa học có thể cải tiến.

Điểm thứ nhất mà chúng tôi muốn nói đến là điểm đã nói trước đây, về sự " thiếu thốn". Khoa học không đầy đủ để giải quyết các khó khăn trên thế giói hiện đại. Chúng tôi muốn lấy môi sinh làm thí dụ, vì vấn đề bảo vệ môi sinh là một trong những vấn đề quan trọng của thời đại chúng ta, và khoa học phải giữ một vai trò lãnh đạo để giải quyết vấn đề, nhất là về phương diện nghiên cứu và đề nghị các giải pháp.

Kiến thức khoa học không giá trị. Khoa học có thể báo động cho chúng ta về những nguy hiểm hiện hữu, nguyên nhân, và những phương cáchchúng ta phải đối đầu. Kỹ thuật, bắt nguồn từ khoa học, là khí cụ thiết yếu trong công việc này. Nhưng dù chúng ta có những khí cụ có giá trị như trên vẫn chưa đủ cho chúng ta giải quyết vấn đề. Hơn thế nữa, khi chúng ta xét nguyên nhân của những khó khăn này, chúng ta tìm thấy chúng phát xuất từ khoa học và kỹ thuật.

Khoa học và kỹ thuật không thể sửa chữa công việc làm của chính mình. Mặc dù chúng ta có đủ kiến thức cần thiết, nhưng chúng ta lại không sử dụng. Thay vì có khả năng kỹ thuật giải quyết vấn đề, chúng ta lại tiếp tục loại kỹ thuật làm trầm trọng thêm. Đơn giản, kiến thức khoa học không thể thay đổi tư cách đạo đức của con người thay vì sự kiện là nếu kỹ thuật đứng đắn được sử dụng chúng ta có thể giải quyết những khó khăn mà chúng ta phải đối đầu. Những toan tính dể giải quyết những khó khăn ấy đều bị tắc nghẽn vì lưỡng lự. Trong khoa học tương lai ngay tức khắc, khoa học phải tự mình bằng lòng làm việc với sự rèn luyện trí óc khác, cung cấp các dữ kiện cho một nỗ lực tập thể để giải quyết những khó khăn ấy.

Bây giờ cái gì có thể sử dụng để giải quyết khó khăn của nhân loại thêm vào khoa học và kỹ thuật? Từ quan điểm Phật giáo, giải quyết khó khăn của nhân loại, bất kỳ loại nào, bao giờ cũng phải thực thi với ba phương pháp trọng yếu vì những khó khăn của nhân loại phát xuất trên mức độ khác nhau .

Về phương cách môi sinh chẳng hạn, có ba mức độ phải được hội nhập là:

1. Mức độ về tư cách đạo đức.
2. Mức độ về tâm.
3. Mức độ về sự hiểu biết.

Ba mức độ phải được hợp nhất trong tiến trình giải quyết khó khăn:

1. Trên mức độ tư cách đạo đức, phải có sự kiềm chế xã hội, đó là kiềm chế sự phóng khoáng thân thể ra phía ngoài và tư cách cách đạo đúc về nói năng.

Có hai phương cách kiềm chế cách cư xử ngoài xã hội:

- Thứ nhất, kiềm chế không cần đến điều lệ hay luật gồm hình phạt cho những kẻ phá luật lệ vân vân. Trong Phật Giáo gọi là 'vinaya' (luật).

- Phương cách thứ hai kiềm chế từ trong phạm vi cá nhân, do ý định. Hầu hết trong những trường hợp ý định phát xuất từ tín ngưỡng tôn giáo. Nếu, thí dụ, có đức tin, và tin tưởng trong tôn giáo, có sự sẵn lòng và thiện chí để kiềm chế tư cách đạo đức. Phương cách này trong Phật Giáo gọi là sila (giới).

Tóm lại phương cách thứ nhất là vinaya (luật) - Điều lệtiêu chuẩn để ngăn ngừa các hành động phá hoại, và phương cách thứ hai là sila (giới)- dụng ýlý trí để kiềm chế hầu khỏi vi phạm những giới cần phải tôn trọng.

Cả hai phương cách này đều liên hệ đến việc kiểm soát và huấn luyện tư cách đạo đức. Trên phương diện xã hội, rất cần thiết thiết lập những luật lệ, nhưng cũng chưa đủ. Chúng ta phải cần phải có giới để tuân theo vâng giữ cho đến khi hạnh kiểm của chúng ta không còn vương mắc và được điều hòa.

2. Vì tâm là yếu tố tạo nguyên nhân của các vấn đề: Nếu chúng ta muốn mọi người tham gia vào việc bảo vệ thiên nhiên, trước tiên chúng ta phải đặt sự ham thích này trong tâm của mọi người. Cho nên từ "việc bảo vệ thiên nhiên", chúng ta đi đến "ham thích bảo vệ thiên nhiên".

Từ đâu sự ham thích bảo vệ thiên nhiên phát xuất? Sụ ham muốn này phát xuất từ lòng mến yêu thiên nhiên. Nếu có sự cảm kích với thiên nhiên, ham thích bảo vệ thiên nhiên tự nhiên sẽ bộc phát theo sau. Nhưng chưa phải là hết - người dân chỉ cảm kích thiên nhiên khi họ sống hạnh phúc với thiên nhiên.

Dường như hầu hết mọi người đã nhận thức được sự quan trọng việc cảm kích thiên nhiên, nhưng tất cả những gì họ nhìn thấy đều chỉ rất ngắn ngủi. Họ không nhìn thấy cả chuỗi những điều kiện. Bao lâu mà họ không nhìn được tất cả các yếu tố liên đới, những dự tính để giải quyết vấn đề đều sẽ thất bại. Chúng ta phải nghiên cứu sâu xa để tìm ra đầu mối của chuỗi ấy, để nhìn thấy nhu cầu gì cần phải làm để khuyến khích người dân cảm mến thiên nhiên.

Lòng mến yêu thiên nhiên sẽ phát xuất với khó khăn nếu người dân sống không hạnh phúc với thiên nhiên. Người dân phải có tâm sống thoải mái với thiên nhiên trước khi họ có thể mến yêu thiên nhiên, và từ đó họ có thể phát triển lòng ham thích bảo vệ thiên nhiên và sẽ dẫn đến công việc bảo vệ ngày nay.

Dù vậy có nhiều yếu tố khác hay những ngăn ngại trong chuỗi điều kiện của chúng ta, điều này quá đủ đưa đến ý kiến tổng quát. Cho đến nay khoa học đã có một vai trò quan trọng trong việc ngăn chặn tiến trình này hoạt động. Đó là lòng ham thích tìm hạnh phúc từ sự khai thác thiên nhiên khiến cho người ta cảm thấy, sâu xa trong phạm vi của mình, là con người chỉ hạnh phúc nhờ kỹ thuật, và thiên nhiên là một trở ngại cho hạnh phúc này.

Nhiều trẻ em trong hiện tại cảm thấy hạnh phúc của chúng nằm nơi kỹ thuật, và cảm thấy không thoải mái với thiên nhiên. Thậm chí, chúng có thể đi xa hơn nữa coi thiên nhiên như kẻ thù, một trở ngại cho hạnh phúc của chúng. Thiên nhiên phải được chinh phục để có thể vui hưởng hạnh phúc của kỹ thuật. Hãy nhìn vào tâm của người ta trong thời đại này. Bạn có thể nhìn thấy hầu hết mọi người trong xã hội đều nghĩ như vậy. Đó là kết quả từ ảnh hưởng của khoa học trong Thời Đại Kỹ Nghệ mới đây.

Tin tưởng chinh phục thiên nhiên và tìm hạnh phúc trong hàng hóa vật chất biểu hiện và chủ trương bởi kỹ thuật đã ngự trị trong tâm con người một thời gian lâu khiến con người có cảm nghĩ thiên nhiênkẻ thù, một chướng ngại cho sự tiến bộ của nhân loại. Bao lâu mà cảm nghĩ này còn lan tràn, sẽ rất khó khăn cho con người mến yêu thiên nhiêncon người không thể tìm được hạnh phúc trong thiên nhiên.

lý do này, đường lối suy nghĩ của chúng ta phải thay đổi. Nếu chúng ta tiếp tục sống trong thế giới thiên nhiên, chúng ta phải tìm thấy điểm quân bình, và để chúng ta có thể làm được việc đó, chúng ta phải phát triển lòng cảm mến thiên nhiên, ít nhất cũng nhìn thấy điều thiên nhiên cho chúng ta hạnh phúc. Có rất nhiều cái đẹp trong thiên nhiên, và kỹ thuật có thể sử dụng để nâng cao sự cảm kích thiên nhiên.

Để được hữu hiệu hơn, sự chế ngự cách hành xử của chúng ta rất cần thiết được hỗ trợ bởi sự nhận thức tinh thần. Nếu thừa nhận một hành động khéo léo hay một ý tưởng đẹp đẽ trong cách hành xử như vậy, hay có đủ động lực khiến chúng ta tự nguyện bắt đầu rèn luyện nhân cách của chúng ta trong một đường lối xây dựng, rồi nhu cầu tự huấn luyện không cần phải bắt buộc hay cần đến một thao tác khó khăn.

3. Mức trí tuệ liên hệ tới sự hiểu biết nhân quả, hay nguyên nhânđiều kiện trong thiên nhiên. Điều này quan trọng hàng đầu. Để hiểu rõ việc ủng hộ hay bác bỏ giải pháp bảo vệ thiên nhiên, chúng ta phải hiểu biết một phần nào về thiên nhiên. Về phương diện này, Khoa Học Thuần Túy có thể là lợi ích to lớn, cung cấp các dữ kiện giúp chúng ta nhìn được những yếu tố xác đáng liên hệ đến việc phá hoại môi sinh, đến đường lối nào mà môi sinh bị phá hoại, và những hậu quả gì sẽ sẩy ra từ sự phá hoại này.

Hiểu được tình trạng này sẽ mở rộng tâm ý con người và làm cho con người lãnh hội được. Nếu có sự hiểu biết ta thấy được một hành động nào đó có thể là nguyên nhân gây tại hại cho môi sinh dẫn đến hiệu quả tai hại cho con người, chúng ta sẽ cảm thấy khích lệ để thay đổi cách hành xử của chúng ta.

Tuy nhiên, đôi khi, mặc dù hiểu biết hậu quả xấu của việc gì đó, chúng ta vẫn không thể thay đổi cách hành xử của chúng ta vì tâm chúng ta không chấp nhận vì còn nông cạn. Do đó tại sao tâm chúng ta quan trọng phải có cả sự hiểu biết tình trạng ở một mức trí thức lẫn tình cảm, sự thừa nhận, một thiện chí sống hạnh phúc với thiên nhiên. Kiến thức khoa học không thôi không đủ để lôi cuốn con người thay đổi đường lối, vì từ luyến ái đến thói quen, lợi dưỡng cá nhân, xã hội ưu tiên vân vân... Với niềm vui về thiên nhiêncăn bản, bất luận một sự thấu hiểu bằng trí thức nào, chẳng hạn như sự hiểu biết hệ thống sinh thái học, sẽ giúp việc hiểu biết xâu xa hay làm vững mạnh tất cả những phẩm tính về mức độ cảm xúc.

Để thực sự đối đầu với tình thế, chúng ta phải có một giải pháp hiểu biết. Những phương pháp của Phật Giáo là một giải pháp hiểu biết cho vấn đề trên tất cả các mức độ. Có ba mũi nhọn, hay phân chia (bậc) của Phật đạo. Trong Phật Giáo bậc thứ nhất chúng tôi gọi là giới (sila) tức sự kiềm chế hay kiểm soát nhân cách trong phạm vi luật (vinaya), luật lệđiều lệ. Thu thúc hành động đạt được do dụng ý là cốt tủy của giới. Cả hai mức độ, điều luật và ý định tinh thần đều nằm trong tiêu đề tổng quát của giới để rèn luyện tư cách đạo đức.

Bậc thứ hai liên quan đến tâm để rèn luyện cảm nghĩ, phẩm tính và thói quen của tâm phải có đạo đức và khéo léo. Đó là định (samadhi), cách rèn luyện tâm.

Bậc thứ ba là huệ (trí tuệ panna) hay kiến thức hiểu biết. Trí tuệ là phẩm tính điều hành hoạt động của bậc thứ nhất và bậc thứ hai, xem xét chúng và đem chúng vào con đường chính đáng. Trí tuệ có khuynh hướng không tích cực, cho nên trí tuệ phải đưọc hỗ trợ bởi việc rèn luyện, đạo đứcthiền định.

Trí tuệ không những giám sát việc thực hành kiềm chế tinh thầnthiền định, mà cũng còn khảo sát mặt tiêu cực của sự vật, cái thấy thí dụ như hậu quả tai hại của cách hành sử không khéo léo, cả đến những trường hợp cách hành xử đem niềm vui và lợi ích trong đường lối nào đó. Nếu lạc thú như vậy lại đem lại tai hại, trí tuệ là tiếng nói cho chúng ta biết ta phải loại bỏ cách hành xử ấy hay phải sửa lại cách hành xử cho đúng cách.

Ba bậc trên đây cùng nhau hoạt độngtùy thuộc lẫn nhau. Trước tiên chúng ta rèn luyện các hành động, trau dồi cách hành xử khéo léo, và loại bỏcách hành xử vụng về. Đồng thời chúng ta rèn luyện tâm, thấm nhuần tâm với nỗ lực khéo léo và cảm nghĩ hỉ lạc hay thỏa mãn trong việc thực hành, mở mang chánh kiếnlý do thực hành thấy được đúng lợi ích hay tai hại của những hành động của chúng ta.

Khi tu tậpthực hành chúng ta càng ngày càng trở nên kiên định hơn, tâm sẽ thấy hỉ lạc trong việc tu tập khiến niềm tin tăng trưởng. Khi niềm tin gia tăng, tâm sẽ sáng suốt nhận định và hiểu thấu được hành động của chúng ta. Khi trí tuệ và sự hiểu biết phát sinh, thấy sự lợi ích trong việc tu tập và sự tai hại không tu tập, niềm tin lại tăng trưởng, chúng ta có thể kiểm soát đưọc cách hành xử của chúng ta, đem áp dụng và làm cho cách hành xử phù hợp hơn với chánh đạo.

QUÁ TRỄ

Bây giờ chúng ta đi đến phẩm chất của "Quá Trễ". Chúng tôi muốn quý vị rõ được ý nghĩa chúng tôi muốn nói trong câu này để trình bày điều liên quan đến khoa học. Một thí dụ, chúng tôi muốn so sánh quan điểm trong Đạo Phật với quan điểmcủa khoa học có một số tương đồng.

Trong khoa học chúng takiến thức khoa học ở một mặt, và thái độ khoa học ở một mặt. Trong nhiều trường hợp quan điểm khoa học quan trọng hơn kiến thức khoa học. Lý do này là tại sao? Vì dữ kiện hay kiến thức đạt được do khoa học nhiều khi cho thấy sai và phải điều chỉnh lại. Điều này cho thấy sự tiến hành đang xẩy ra. Đó là quan điểm khoa học hay mục tiêu là một nguyên tắc không thay đổi, nguyên tắc đã đem lợi ích lớn lao cho nhân loại. Dù từng mảnh kiến thức của cá nhân có thể được sử dụng ngày nay hay không, tuy không phải là một điều chắc chắn, nhưng thái độ này là một điều kiện có thể dùng được ngay và có lợi ích ngay. Quan điểm của khoa học và đạo Phật cũng có một số dị biệt.

Trước nhất, chúng tôi xin được giải thích. Cái gì là quan điểm Phật Giáoquan điểm khoa học? Quan điểm của cả Phật Giáo lẫn khoa học có cùng một mục tiêu, đó là nhìn tất cả sự vật theo nhân và quả, hay nguyên nhân và các điều kiện. Đương đầu với bất cứ trường hợp nào, cả hai quan điểm Phật Giáoquan điểm khoa học đều cố gắng nhìn vào nguyên nhânđiều kiện để thấy rõ chúng đúng như thế nào.

Thí dụ, bạn nhìn người bạn đang tiến về phía bạn với bộ mặt đau khổ. Với hầu hết chúng ta, nhìn nét đau buồn trên khuôn mặt người bạn thường làm cho bạn không vui. Chúng ta có thể nghĩ rằng người bạn này giận chúng ta, và chúng ta thường phản ứng lại bằng cách tiêu cực. Một nhận thức về kinh nghiệm không vui nảy sanh và phản ứng không thích sanh khởi vì nghĩ rằng: "người bạn này giận dữ, vậy sao ta không giận dữ". Và chúng ta lại cũng mang một tâm trạng buồn đau để phản ứng lại.

Nhưng với quan điểm Phật giáo hay khoa học, khi chúng thấy một người bạn chúng ta tiến về phía chúng ta với bộ mặt đau buồn, chúng ta không nhìn vào bộ mặt ấy với một tâm trạng bực dọc thương hay ghét mà mục tiêukhám phá ra sự thật tại sao người bạn có nét mặt giận dữ. Đó là quan điểm nhìn vào sự vật theo nguyên nhânđiều kiện... "Chà, anh có vẻ giận dữ, tôi lấy làm lạ sao bạn tôi hôm nay trông có vẻ giận dữ. Tôi lo lắng có điều gì sẩy ra làm phiền anh. Có lẽ có người nào đó ở nhà đã làm anh bực bội, hay có lẽ tại anh không tiền, hay có lẽ anh ...." Đó là chúng ta tìm nguyên nhân thực sự gây ra cho anh. Đó là cái mà chúng tôi gọi là quan điểm Phật Giáo, áp dụng đến hiện tượng tinh thần, quan điểm này tương quan với quan điểm khoa học áp dụng trên bình diện vật chất. Đó là một quan điểm tìm hiểu, một quan điểm nhìn vào sự vật theo nguyên nhânđiều kiện.

Nếu cách nhìn vào tình trạng như vậy, không có vấn đề gì phát xuất. Quan điểm như vậy sẽ dẫn đến giải quyết vấn đề và mở mang trí tuệ. Tìm kiếm nguyên nhânđiều kiện về cái đau buồn của người bạn, chúng ta có thể hỏi anh về nguyên nhân hay hành động bằng một cách tế nhị nào đó khiến anh cho ta câu trả lời đưa đến cách giải quyết vấn đề.

Đó là quan điểm thông thường trong cả Phật Giáo lẫn khoa học. Nhưng quan điểm này khác biệt nhau thế nào? Quan điểm của khọc là quan điểm chỉ dùng đạt kiến thức, nhưng quan điểm Phật Giáo lại được coi như một phần và một mảnh của chính đời sống. Quan điểm này là một phần của đời sống khôn ngoan khéo léo, đó là cách sống hòa hợp trong xã hội, Tóm lại, đó là đạo đức.

Quan diểm của khoa học điển hình rõ ràng khoa học tránh vấn đề đạo đức hay những giá trị thực ra chứa đựng trong đó. Quan điểm khoa học chính trong nó là đạo đức, nhưng vì khoa học phủ nhận hoàn toàn nó, khoa học hoàn toàn không biết đến sự lợi ích đạo đức đem lại . Quan trọng hơn nữa, khoa học không nhìn thấy đạo đứcyếu tố thiết yếu trong tiến trình tìm hiểu sự thật của thiên nhiên.

Quan điểm Phật Giáo không chỉ đơn giản dùng để đạt kiến thức, mà còn áp dụng trong đời sống hàng ngày, ngay trong hiện tại. Khi chúng ta áp dụng chặt chẽ hàng ngày vào sự việc, chúng ta đi đến phẩm chất mà chúng ta gọi là "Quá Trễ" . Vì quan điểm khoa học chỉ là một quan điểm đơn giản tìm kiến thức, tất cả mọi áp dụng thực hành phải đợi cho đến khi khoa học có được tất cả những câu trả lời. Bao lâu mà chúng ta chưa có câu trả lời chúng ta bị bó tay. Nếu chúng ta chưa biết được điều gì nó ra sao, chúng ta không biết cách hành xử với nó.

Nhưng trong thế giới này có quá nhiều sự vật mà khoa học chưa có câu trả lời và cũng không cho biết bao giờ khoa học mới có câu trả lời. Đồng thời, nhân loại, cả cá nhân lẫn xã hội, phải sống trong hiện tại. Nói một cách đơn giản, cuộc sống cho chúng sanh trong một đường lối thích nghi và khéo léo, trong không gian này quãng đời của một cá nhân trong xã hội, đúng thời điểm, không thể chờ đợi những câu hỏi ấy từ thế giới khoa học.

Quan điểm Phật Giáotìm kiếm kiến thức liên kết với cuộc sống, nhằm vào nhìn sự vật theo nhân quả là một phần và một mảnh của tiến trình cho một cuộc sống tốt đẹp, không phải đơn giản chỉ là một khí cụ để tìm kiến thức. Cho nên, với quan điểm Phật Giáo, bất cứ bao giờ chúng ta gặp điều gì mà chúng ta chưa biết rõ ràng, hay chưa kiểm chứng được, chúng ta phải có một nhân sinh quan giúp chúng ta thực hành khéo léo đối với việc đó. Chúng ta không mất mẫu mực trong đời sống.

Quan điểm khoa học là chỉ tìm kiếm kiến thức mà không có một nhân sinh quan về đời sống. Phật Giáo dạy cả hai lãnh vực, đưa con đường thực hành trong việc tương quan vói sự vật trong đời sống hiện tại. Chúng tôi xin đưa ra một chứng minh, một vấn đề khó khăn của nhân loại qua các thời đại, và đối với vấn đề đó, ngay cả chúng tôiPhật Tử, không sử dụng một nhân sinh quan Phật Giáo thích đáng. Chúng tôi muốn nhắc đến vấn đề về những chúng sinh cõi trời (Chư Thiên).

Vấn đề chư thiên là một vấn đề có thể nhận xét trong phạm vi tương quan với sự thật có thể xác minh, hay nó có thể nhận xét trong mối tương quan với xã hội loài người, dưới ánh sáng của đời sống mỗi ngày. Nhìn vào vấn đề với quan điểm khoa học, chúng ta nghĩ trong phạm vi sự thật có thể xác minh, đó là những điều đó thực có hay th?c không có. Rồi chúng ta tìm một phương cách kiểm tra vấn đề. Vấn đề trở thành một của những sự thật 'đang chờ đợi phải được xác minh', hay có lẽ là 'không thể xác minh được'.

Nhưng chẳng cần phải lưu ý đến vấn đề đang chờ đợi xác minh hay không xác minh, hay vấn đề được coi như không xác minh được, vấn đề vương mắc lại ngay tại đây, và nhân loại không có cách giải quyết thực tiễn. Bao lâu mà vấn đề không xác minh được, vấn đề đơn giản trở thành một vấn đề của niềm tin. Nhóm này tin những sự vật này hiện hữu, nhóm kia không tin sự vật đó hiện hữu. Mỗi bên đều có ý kiến riêng của mình. Hãy ghi nhận là nhũng ai tin là không có những sự vật như vậy không vượt qua mức độ của niềm tin - họ vẫn còn bị kẹt về niềm tin là những sự vật như vậy không hiện hữu. Cả hai nhóm này đều sống trong một xã hội. Bao lâu mà họ còn có những dị biệt và niềm tin không giải quyết được, sẽ có trạng thái tinh thần căng thẳng.

Chẳng hạn, khoa học không đưa ra lời khuyên dặn gì, nhưng trong Phật Giáo có nhiều cách thực tập cho nhiều trình độ. Trên mức độ thứ nhất, tìm kiếm sự thật bằng kinh nghiệm bất kể là ai muốn chúng minh vấn đề theo cách này hay cách khác, không có khó khăn gì. Những ai muốn tìm kiếm những dữ kiện, tự do tiếp tục việc nghiên cứu của họ, hoặc tán thành có sự hiện hữu của chúng sinh cõi trời hoặc không tán thành.

Trên mức độ thứ hai, tìm ra một quan điểm chính đáng về cách cư xử trong đời sống hàng ngày, chúng ta nên làm gì? Trong Phật Giáo có cách thực hành không gây mẫu thuẫn gì dù có sự hiện hữu hay không có sự hiện hữu của chư thiên. Đời sống của chúng ta có một tiêu chuẩn rõ ràng có thể áp dụng ngay tức khắc. Chúng ta lúc nào cũng sẵn sàng chấp nhận sự thật, dù có chứng minh được có sự hiện hữu của chư thiên hay không có sự hiện hữu của chu thiên., và đưòng lối sống của chúng ta không ảnh hưởng gì đến việc khám phá đó.

Đa số người dễ dàng bị thống trị hay bị dồn vào thế phòng thủ vì nghi ngờ về giải pháp là như vậy khiến bị lôi cuốn về một trong hai quan điểm cực đoan - chư thiên hiện hữu thực sự hay không hiện hữu thực sự . Nếu bạn tin các chư thiên hiện hữu, bạn phải cầu khẩn, và thi triển lễ nghi để làm vừa lòng họ. Nếu bạn không tin các chư thiên hiện hữu, bạn phải lý luận với những người tin chư thiên hiện hữu.

 

Nhưng trong Phật Giáo chúng tôi phân biệt rõ ràng giữa sự tìm kiếm dữ kiện tiến hành bình thường, và cách xử xự đời trong cuộc sống hàng ngày. Đời sống của chúng ta không tùy thuộc nơi chư thiên. Nếu có chư thiên thì chư thiên cũng chỉ là những chúng sinh trong vũ trụ này giống như chúng ta phải chịu sanh, già, bệnh và chết. Chúng ta những người Phật Tửgiáo lý khuyến khích chúng ta phát triển các tu tưỏng thiện với tất cả chúng sinh trong vũ trụ. Nếu có các chúng sanh cõi trời, chúng ta phải có tư tưởng thiện với ai là chư thiên.

Cốt lõi của đạo Ph?t là giáo pháp tự phát triển và tự lực. Mục tiêu tự do. Nếu chúng ta thực hành theo nguyên tắc tự lực, chúng ta hiểu trách nhiệm của chúng ta như thế nào. Trách nhiệm của chúng ta là phải tự rèn luyện, phải đạt kết quả tốt hơn. Và trách nhiệm của các chư thiên là chính họ phải đạt kết quả tốt hơn. Cho nên cả hai cùng có trách nhiệm là phải tự cải tiến để đạt kết quả tốt hơn. Chúng ta có thể cùng hiện hũu với chư thiên với cùng loại tư tưởng. Đồng thờichư thiên hiện hữu hay không hiện hữu, không phải là mối quan tâm của chúng ta. Giống như con hà mã và con beo - mỗi con đều có thể hiện hữu chung sống hòa bình trên thế giới không có trở ngại gì. Cũng như vậy, Phật giáo có một nhân sinh quan rõ ràng về vấn đề, và người Phật Tử không lo lắng gì về những điều này.

Nếu khôngquan điểm này, chúng ta sẽ bị mắc kẹt trong vấn đềhiện hữu hay không hiện hữu. Nếu chư thiên hiện hữu, chúng ta phải cư xử ra sao? Chúng ta có thể tạo ra các nghi lễhy sinh (các con vật), điều này không phải là bổn phận của người Phật Tử. Trách nhiệm của người Phật Tửtu tập để đạt tốt đẹp hơn. Nếu con người thành công hoàn toàn trong việc tự mình đạt kết quả tốt đẹp hơn, người ấy sẽ trở nên chúng sinh thượng hạng của tất cả chúng sanh - -ngay cả các chư thiên cũng phải tôn kính người ấy.

Đó là một thí dụ quan điểm Phật Giáo, mà cốt lõi giống như thái độ mô tả trong sự so sánh kẻ bị thương bằng mũi tên độc. Nếu bạn bị bắn bởi mũi tên, nhiệm vụ đầu tiên của bạn là hãy rút mũi ra trước khi độc được có thể lan tràn khắp cơ thể và giết bạn. Về việc tìm kiến dữ kiện liên hệ đến việc sẩy ra này, bất cứ ai nghĩ rằng phải làm, nhưng việc trước nhất cũng vẫn phải là rút mũi tên ra đã.

Việc này tương tự như cách suy nghĩ của Sir Arthur Stanley Eddington. ông có ý kiến tương tự, mặc dù ông không nêu lên trên phương diện Phật Giáo. ông viết:

"Quả thực dễ dàng cho một con lạc đà chui qua một lỗ kim hơn là một khoa học gia đi qua một cái cửa. Dù cửa ấy là cửa của một căn nhà thô sơ hay cửa đó là của một nhà thờ, điều khôn ngoan hơn là một con người khoa học nên coi mình như một người bình thường và bước qua hơn là chờ đợi cho đến khi tất cả những khó khăn liên hệ đến sự thâm nhập thực sự quyến vào khoa học được giải quyết."

Kinh sách của Cơ Đốc Giáo nói rằng quả là dễ dàng cho một con lạc đà chui qua một lỗ kim hơn là một người giàu có lên thiên đàng. Eddington lập lại câu đó: quả dễ dàng cho con lạc đà chui qua lỗ kim còn hơn là một con người khoa học bước qua một cái cửa để vào phòng. ông muốn nói gì đây?

Chúng tôi muốn nhấn mạnh nơi đây là Eddington muốn nói đến con người khoa học chứ không phải là khoa học gia. Lý do là rất khó khăn cho một con người khoa học trước nhất đứng ngay trước cửa và lo lắng, " Chà, tôi lo ngại nếu tôi đi qua cửa này?" ông ấy phải xét tất cả những định luật vật lý. Chẳng hạn ông ấy tính sức ép của không khí là bao nhiêu một inch vuông trên cơ thể ông ta khi đi qua cửa, tốc độ của trái đất vào lúc đó, hậu quả sẩy ra khi ông bước vào phòng.. ông suy nghĩ hoài. Cuối cùng con người khoa học này thấy không thể nào đi qua cửa này được vì ông chẳng bao giờ tính hết được những con tính khoa học của ông. Cho nên tại sao Eddington nói quả là dễ dàng cho con lạc đà chui qua lỗ kim hơn là một con người khoa học đi qua cái cửa.

Eddington kết luận những khoa học gia nên hành xử như một người bình thường. Dù là cái cửa của một nhà thờ, cái cửa của một nông trại, hay bất cứ loại cửa nào đi nữa, hãy cứ đi qua đi. Muốn kiểm soát lại, cứ việc tiếp tục sau. Việc này rất trùng hợp với quan điểm Phật Giáo, cho nên chúng tôi đã bao gồm vào đây.

VÂN ĐỀ PHÁT TRIỂN CHỈ CÓ THỂ ĐỀ CẬP TỚI KHI THỰC SỰ HIỂU ĐƯỢC CÁC GIÁ TRỊ

Khoa Học Thuần Túy giữ vững cho là giá trị rỗng tuếch, nhưng ai cũng biết vai trò khoa học quan trọng như thế nào trong việc mở mang xã hội cận đại, mặc dù việc mở mang là do hoạt động của con người, đã thấm nhuần đầy với giá trị. Khi chúng ta nhìn kỹ vào lịch sử, chúng ta tìm thấy những giá trị đã có một ảnh hưởng tế nhị trong việc sanh khởi và phát triển khoa học, bắt đầu với đức tin và sự khao khát muốn biệt sự thật của thiên nhiên, cho đến giá trị phá hoại nhất, ham muốn chinh phục thiên nhiên và sản xuất thật nhiều hàng hóa vật chất.

Giải pháp về vấn đề những giá trị trong khoa học không phải là nỗ lực để loại bỏ chúng. Khoa học không cần thiết cố gắng để tránh các giá trị. Đó là vấn đề cố gắng làm sáng tỏ những giá trị mà khoa học làm hay nên làm và có. Nếu không, khoa học không biết đến, sẽ trở thành ảnh hưởng tiêu cực, một ảnh hưởng có thể đe dọa phá hủy hoàn toàn nhân loại.

Trong những phần trước của bài này, chúng tôi cố gắng trình bày xin liên hệ của khoa học đến những giá trị trên hai mức độ, giá trị tối thượnggiá trị tạm thời. Giá trị tối thượnggiá trị khoa học phải gắn bó để có thể đạt được chân lý tối thượng, vì giá trị tối thượng tự nó đã là chân lý, và như vậy, nó là một yếu tố cần thiết trong việc đạt được chân lý chủ yếu. Tuy nhiên, giá trị tối thượng, điều thiện cao nhất, hay tự do, là một lý tưởng, là một mục tiêu, và như vậy sẽ không ảnh hưởng nhiều về phẩm chất của khoa học nói chung.

Giá trị ảnh hưởng nhất và tức khắc với khoa học, là giá trị thứ yếu chia làm hai loại: loại từ đó phát xuất có sự hòa hợp, giá trị tối thượng; và giá trị giả tạo xâm nhập vào khoa học do kết quả của sự thiếu phản ảnh đến các giá trị.

Trong khi các khoa học gia không hiểu gì về các giá trị, và không nhìn thấy sự tương quan giữa những giá trịchân lý mà họ đang tìm kiếm, thêm vào giới hạn phạm vi kiến thức mong muốn và việc đem lại trong việc tìm kiếm không kết quả của kiến thức tối thượng, khoa học sẽ bị lấy đi bởi các giá trị kém hơn và những giá trị phản ứng, một số thừa hưởng từ những thế hệ trước và một số do dục vọngham muốn hạnh phúc trong tâm ngày nay của chính các khoa học gia. Khi những giá trị hạ đẳng này ảnh hưởng đến tâm, sẽ không những đương nhiên quẳng đi sự tìm kiến kiến thức chính đáng, mà còn mang lại ảnh hưởng phá hoại, gây nên những khó khăn ngay trong hiện tại và tương lai.

Ngược lại, nếu các khoa học gia, hay những ai đi tìm sự thật, nhận định được sự liên hệ giữa những giá trị trừu tượngthế giới vật thể, họ cũng sẽ nhận thức được muốn tìm kiếm và hiểu đưọc sự thật tự nhiên là phải hiểu bản chất con người; đó là con người phải hiểu chính mình và hiểu thiên nhiên chung quanh mình. Khi có sự nhận thức như thế, giá trị thứ yếu bắt nguồn từ giá trị tối thượng tự nó sẽ sanh khởi. Nhiệm vụ tư động sẽ hoàn thành. Khi có chánh kiến, kết quả sẽ gấp đôi là:

1. Sự tìm kiếm kiến thức sẽ không bị giới hạn hay hướng dẫn sai lầm, mà sẽ trực tiếp tiến thẳng trên con đường tìm kiếm loại kiến thức cao nhất.

2. Loại giá trị thứ yếu chính đáng tự động sanh khởi và sự phát triển con người sẽ tiến hành đi đôi với việc tìm kiếm kiến thức.

Nếu sự tìm kiếm căn cứ vào chánh kiến, loại giá trị chính đáng tự động hiện hữu.

Loại giá trị tối thượng là một điều kiện đạt được khi nhận thức được sự thật. Không cần thiết phải tự tranh đấu để đạt giá trị, đơn giản chỉ cần mang trong tâm. Khi điều này nhận thức được, loại giá trị thứ yếu sẽ quân bình, thích hợp với giá trị tối thượng sẽ sanh khởi.

Mặc dù trên con đường đi lên hòa hợp, sự bảo đảm cho giá trị không cần thiết, vì đã bao gồm trong sự tỉnh giác được sự thật, trong thực tế, kiến thức khoa học học như vậy được chuyển vào kỹ thuật, cần thiết nhấn mạnh một số giá trị để làm sáng tỏ hướng đi của sự nghiên cứu và để ngăn chặn sự xâm nhập của các giá trị thấp kémgiá trị phá hoại.

Một vài thí dụ về những giá trị tích cực như: sự tìm kiến kiến thức để đạt tự do từ con người bất toàn, hay tìm kiếm kiến thức để giải quyết các vấn đề, và xa hơn nữa sự phát triển nhân loại....gồm cả các giá trị thấp kém như phải tranh đấu để làm mọi việc thận trọng với kết quả có hại tối thiểu.

Cuối cùng, hiểu được sự quan trọng của giá trị giúp cho các khoa học gia nhận thức được và hiểu phương cách liên kết đến giá trị mà họ phải tiếp xúc trong việc tìm kiếm kiến thức, như tham lam, giận hờn, đau khổ, ghen ghét, thèm muốn vân vân...như trường hợp của Newton. Quan trọng hơn nữa là họ sẽ thấy giá trị của những giá trị chính đáng, và biết cách làm thế nào sử dụng chúng có hiệu quả. Cuối cùng, khoa học gia sẽ có ý thức về đức hạnh và không trở thành chỉ là những đầy tớ cho kỹ nghệ.

Một giá trị đứng hàng đầu cho nhân loạihoạt động của nhân loạihạnh phúc, hay phẩm tính của hạnh phúc và khổ đau. Giá trị của hạnh phúc nằm sâu trong tiềm thúc đằng sau tất cả những hoạt động của con người, và đó là một phần thiết yếu của đạo đức. Quan niệm hạnh phúc của ta sẽ tự nhiên ảnh hưởng đến những việc làm của ta. Chẳng hạn, những giá trị của Thời Đại Kỹ Nghệ nhìn thấy hạnh phúc nằm trong sự chinh phục thiên nhiên để sau thiên nhiên có thể được sử dụng theo sự mong muốn của con người. Việc này đã dẫn đến những sự phát triển gây nên quá nhiều khó khăn hiện nay trên thế giới.

Để giải quyết thành công những vấn đề, chúng ta phải nhìn vào sự thật của hạnh phúc và khổ đau và xem chúng đúng ra sao. Ngược lại, nếu chúng ta không điều chỉnh lại những giá trị của chúng ta về hạnh phúc và khổ đau, chúng ta sẽ không có phương cách gì để giải quyết những vấn đề mở mang nhân loại.

Để hiệu chính lại sự giải thích ý nghĩa về hạnh phúc, tóm lại, để thay đổi giá trị xã hội, không nên cố gắng trong việc tìm hạnh phúc trong việc phá hoại thiên nhiên, nhưng nên tìm hạnh phúc trong việc hòa hợp với thiên nhiên. Trong đường lối này, chúng ta có thể giới hạn sự thao tác thiên nhiên, điều sẽ làm cho nhân loại nhẹ bớt khổ đau hơn là thoả mãn lạc thú-tìm kiếm.

Nhân loại phải nhận thức nếu nhân loại tiếp tục tìm kiếm hạnh phúc từ sự phá hoại thiên nhiên, nhân loại sẽ không tìm được hạnh phúc, ngay cả đến khi thiên nhiên hoàn toàn bị hủy diệt. Ngược lại, nếu nhân loại có thể vui sống cùng thiên nhiên, nhân loại sẽ chứng nghiệm hạnh phúc ngay cả trong khi phát triển tự do từ khổ đau.

Nói chung, có ba giá trị chính mà các khoa học gia không tránh khỏi liên hệ là:

1. Giá trị trần thế, mà các khoa học gia, cũng như những người bình thường đều có chung với mọi người. Điều này gồm có sự khích lệ hay động cơ thúc đẩy, cả tốt lẫn xấu, sẩy ra trong đời sống hàng ngày trong sự tìm kiếmsử dụng kiến thức. Những giá trị như vậy bao gồm lòng vị kỷ, ham muốn của cải, lợi lạc, danh thơm hay nổi tiếng, hoặc mặt khác những giá trị vị tha, như khả ái và từ bi.

2. Những giá trị liên hệ như nguyên tắc, đường hướng học hỏi nào, như ý kiến chinh phục thiên nhiên, hay giá trị kỹ nghệ, niềm tin hạnh phúc chỉ có thể có được do của cải hàng hóa vật chất, hay ngược lại, nguyên tắc giải quyết khó khăn và nâng cao đời sống.

3. Giá trị tối thượng mà khoa học gia phải gắn bó như một thành viên của loài người, đó là giá trịlý tưởng của loài người cũng như toàn thể, như chúng tôi đã nói, cho đến nay đã không được thế giới khoa học lưu tâm. Khoa học mới chỉ ở giữa đường, với khát vọng biết nhũng sự thật của thiên nhiên trên mức độ bên ngoài. Khát vọng như vậy không bao gồm vấn đề của con người hay điều thiện tối thượng.

Khoa học còn nhiều việc chưa hoàn tất đối với ba loại giá trị trên đây.

KHUYẾN KHÍCH KỸ THUẬT XÂY DỰNG

Trên mức độ đời sống hàng ngày, hay thỏa mãn nhu cầu nhân loại, khoa học đóng một vai trò thiết yếu dọn đường cho kỹ thuật phát triển và khuyến khích việc sản xuất, phát triển và tiêu thụ của kỹ thuật không cân xứng. Mặt khác, sự ưa chuộng của xã hội cho một loại kỹ thuật đặc biệt khuyến khích nghiên cứu khoa học nhằm vào việc sản xuất, phát triển, và tiêu thụ kỹ thuật đó.

Từ cái mà ta nhìn thấy, khoa học hỗ trỡ bởi niềm tin vào hiệu lực chinh phục thiên nhiên và sản xuất nhiều hàng hóa vật chất, đã thúc đẩy sự sản xuất và phát triển kỹ thuật trên một con đường đem đến những khó khăn nghiêm trọng. Khoa học và kỹ thuật hiện nay đã làm hại hơn là đem lợi ích.

Loại sản xuất, phát triển và tiêu thụ của kỹ thuật gây nên những khó khăn ấy là loại đưa đến Tham (ích kỷ, phục vụ phí phạm cho tham dục trên bình diện nhục dục), Sân (gây nên khai thác, phá hoại, buôn bán quyền lực), và Si (khuyến khích cẩu thả, hoạt động phí phạm thì giờ, tiêu thụ mù quánglạm dụng kỹ thuật).

Trong việc phát triển khoa học trên múc độ kỹ thuật, cần thiết phải thay đổi một số mệnh danh căn bản bằng cách khuyến khích sự phát triển kỹ thuật xây dựng, không đem hiệu quả tai hại trong phạm vi kiềm chế của ba nguyên tắc :

1. Kỹ thuật ôn hòa.
2. Kỹ thuật đem lại lợi ích.
3. Kỹ thuật phục vụ cho sự phát triển hiểu biếtcải tiến con người.

Chúng tôi muốn nói chút ít về điểm này.

1. Chúng ta thừa nhận nhu cầu của một con người bình thường. Con người bình thường muốn thỏa mãn ham muốn lạc thú đối với giác quan. Chúng tôi không muốn loại bỏ hay chối bỏ nhũng lạc thú giác quan này. Điểm quan trọng là khuyến khích kiềm chế cách hành xử đến mức độ không đi đến phá hoại hay quá mức, khuyến khích việc kiềm chế tâm, giữ tâm trong phạm vi giới hạn ôn hòa. Đó là giới hạnham muốn cảm xúc tự tạo được quân bình bằng sự tỉnh thức cái thật sự lợi lạc và thật sự cần thiết cho đời sống. Điều này được diễn tả trong từ ngữ "biết ôn hòa'. Điều này gắn bó với sự phát triển trí tuệ do sự phát triển nhân loại. Đặc biệt phải có một số nguyên tắc điều hành việc sản xuất, phát triển và tiêu thụ hàng hóa vật chất trong lãnh vực những thứ này đem lợi ích thực sự, nhằm vào việc nâng cao đời sống hơn là thỏa mãn các giá trị thấp kém. Nói tóm lại chúng ta có thể gọi là ' kỹ thuật ôn hòa', hay kỹ thuật có một giới hạn không tham lam.

2. Thêm vào ích kỷtham lam, nhân loại có khuynh hướng thèm muốn quyền thế của người khác, hay hủy diệt những ai chống lại ham muốn của mình. Tiềm lực của con người về sân đã tìm thấy trong nhiều đường lối, khiến việc sản xuất, phát triển và tiêu thự của kỹ thuật dễ dàng đưa đến sự phá hoại lẫn nhau hơn là sự hợp tác lẫn nhau. Nhân loại phải quay lại, đổi hướng sự phát triển bằng cách thiết lập một mục tiêu rõ ràng, và thiết lập một kế hoặch vững vàngkiên quyết để khuyến khích việc sản xuát, phát triển và tiêu thụ hàng hóa có tính cách xây dựnglợi ích cho xã hội loài người. Kỹ thuật đem lợi ích sẽ giúp tránh khỏi hay giảm thiểu sản xuất kỹ thuật đem sân hận.

3. Cho đến nay, sản xuất, phát triển và tiêu thụ của kỹ thuật hầu hết là thứ dẫn con người đến sự bất cẩn, nhiễm độc, và vô tri vô giác nhất là trong hiện tại trong khi nhiều phần đất trên thế giới đã bước vào Thời Đại Thám Hiểm. Nếu nhân loại thực hành lầm lẫn về kỹ thuật thám hiểm này, thay vì phục vụ cho hoạt động giáo dục, kỹ thuật sẽ là một dụng cụ khuyến khích tâm bất cẩn. Thí dụ, hãy chứng kiến những máy chơi trò cờ bạc, và những trò chơi video trên khắp các thành phố trên thế giới, hoàn toàn không một mực đích gì ngoài việc phí phạm thì giờ và tiền bạc. Hãy chứng kiến việc sử dụng ngu muội kỹ thuật, không một ý thức về lợi ích hay nguy hiểm, dẫn đến tai hại cho môi sinh. Những sự việc này không những đã làm suy biến môi sinh mà chúng cũng làm giảm giá trị phẩm cách của con người.

lý do này, chúng ta cần phải thực hiện một sự thay đổi đường hướng có ý thức - nhấn mạnh vào việc sản xuất, phát triển và tiêu thụ của kỹ thuật đem lại tri thúc và mở mang cho con người, dùng nó như một dụng cụ để truyền đạt kiến thức hữu dụng, và khuyến khích người dân dùng thì giờtính cách xây dựng. Việc sử dụng kỹ thuật phải có ý thức, hiểu biết sự liên quan đến lợi và hại. Theo đường lối này, kỹ thuật sẽ là một dụng cụ nâng cao phẩm chất của đời sống, và bảo vệ môi sinh. Xã hội sẽ trở thành một môi sinh hỗ trợ và khuyến khích sự mở mang tâm linh. Loại kỹ thuật thứ ba này có thể gọi là "kỹ thuật nâng cao tri thúc và phát triển con người" trục tiếp chống lại kỹ thuật đem si mê.

Nếu sản xuất, phát triển và tiêu thụ của kỹ thuật có thể hướng vào đường lối này, và nếu khoa học mở ra con đường về loại kỹ thuật này, thì sự phát triển xây dựng chắc chắn sẽ trở thành sự thực.

- HẾT -

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

CHƯƠNG I:

 

1- Encyclopedia Britannica, In thứ 15 1988, theo "Lịch Sử Khoa Học" của L Pearce Williams (cuốn 27, Trang 37)

 

CHƯƠNG 2:

 

2- Sir Arthur Stanley Eddington, "Bản Chất của Thế Giới Vật Lý" (New York; Macmillan, 1929, Trang 282 (38)

 

CHƯƠNG 3:

 

3- Dhammaniyama hay Kinh Uppada, A. I. 286 (57)
4- Kinh Natumba, S II 64-65 (58)
5- Kalama hay Kinh Kesaputtiya A.J. 188 (60)
6- Kinh Mahapadana, D.II.15 (62)
7- Kinh Naga, A. III. 346, Udayitherakatha, Khu., Thag. 689 (63)
8- Kinh Pháp Cú 188-192 (63)
9- Kinh Sisapa, S.V. 347 (66)

 

CHƯƠNG 4

 

13- Kinh Puhbakotthaka, Sam. S. V. 220 (79)
14- Rene Descartes, trích bởi Clive Ponting, "Lịch Sử Thế Giới", St. Martin Press, Nữu Ước, 1992 P. 148

 

CHƯƠNG 5

 

15- Xem Bản Ghi Chú số 2 (107)
16- Mac Planck, "Sự bí ẩn về chúng sanh", trong "Những câu hỏi vế Quantum", ấn hành bởi Ken Wilbur (Boston: New Science Library, 1984) p. 107
17- Sir James Jeans, "Vũ trụ huyền bí" (CaMbridge Univertsity Press, 1931, p, 11 (107)
18- Roger Penrose, "Tâm Mới của Hoàng Đế", New York, Penguin Books, 1954, p. 40 (120)
20- Ibid., pp 46,52 (120)
21- Ibid., p. 39 (121)
22- Ibid., p 38 (121)
23- Sir Arthur Stanley Eddington, "Sự chống đỡ của Huyền Thoại", trong "Những câu hỏi về Quantum", ấn hành bởi Ken Wilbur (Boston: New Science Library, 1984) p. 208 (143)
 

 

VÀI NÉT VỀ TÁC GIẢ:

 

Hòa thượng Prayudh Payutto sinh năm 1939 tại tỉnh Suphanburi, miền Trung Thái Lan. Ngài thọ giới Sa Di năm 13 tuổi. Trong khi còn đang là Sa Di, Ngài đã tốt nghiệp lớp cao cấp nhất về tiếng Pali. Do thành quả này, Ngài được thọ phong Tỳ kheo dưới sự bảo trợ của Hoàng Gia năm 1961.

 

Sau khi tốt nghiệp ngành Nghiên cứu Phật học tại Viện Đại Học Phật Giáo Mahachulalongkom, đạt văn bằng cao cấp về Giáo Dục năm 1962, và 1963, Ngài giữ nhiệm vụ Phụ Tá Tổng Thư Ký Đại Học Phật Giáo, đồng thời đi thuyết giảng khắp Thái Lan và ngoại quốc, Ngài đã thuyết giảng tại Đại Học Pensylvania, Đại Học Harvard, và Swarthmore ở Hoa Kỳ.

 

Những thành quả văn hóa của Ngài tại Thái Lan rất to lớn, nhất là tác phẩm Buddhadamma (Phật Pháp), bao gồm toàn thể giáo lý của Đức Phật cùng nhiều bài giảng về xã hội, khoa học, giáo dục nhìn từ quan điểm Phật giáo, đã được ấn hành. Do những thành quả về những lãnh vực ấy, Ngài đã được trao tặng Tiến Sĩ Danh Dự về nghiên cứu Phật Học của Viện Đại Học Mahachualongkorn năm 1982, Tiến Sĩ Triết Của Viện Đại Học Thammasat năm 1986; Tiến Sĩ Giáo Dục của các Viện Đại Học Sipalakorn năm 1987, Viện Đại Học Kasetsart năm 1987, và Viện Đại Học Srinakarinvirot năm 1990; và Tiến Sĩ Ngôn Ngữ Học của Viện Đại học Chulalongkorn năm 1988 và Viện Đại Học Mahidol năm 1989.

 

Hiện nay, tác giả vừa làm việc tại Bangkok và tại tỉnh Chacherng Sao, miền Trung Thái, đồng thời đi thuyết giảng tại khắp Thái Lan và ngoại quốc.

 

Xin xem thêm nguyên tác Anh ngữ: "Buddhism as the Foundation of Science"

Chân thành cám ơn Đạo Hữu Bình Anson
đã gửi tặng phiên bản điện tử tập sách này (Tâm Diệu)



#79
tritanngo99

tritanngo99

    Đại úy

  • Điều hành viên THPT
  • 1644 Bài viết
PHẬT HỌC & KHOA HỌC
VỚI CẢM XÚC PHIỀN NÃO
Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển -21/8/2012

 

hhdl-by-rgms.jpgNhiều khổ đau của con người xuất phát từ những cảm xúc phiền não, như thù hận sinh khởi bạo động và hay tham dục tạo ra mê đắm. Một trong những trách nhiệm căn bản nhất của chúng ta khi quan tâm đến con người là để làm vơi bớt những cái giá phải trả của loài người về những cảm xúc vượt ngoài vòng kiểm soát. Tôi cảm thấy rằng cả Phật học và khoa học đều có nhiều đóng góp.

Phật học và khoa học không là những quan điểm xung đột trên thế giới, nhưng đúng hơn là những phương pháp khác nhau đối với cùng kết quả: tìm kiếm sự thật. Trong sự rèn luyện của Phật học, điều cần yếu là khảo sát thực tại, và khoa học cống hiến những phương cách của chính nó để tiến hành sự khảo sát này. Trong khi những mục tiêu của khoa học có thể khác biệt với chủ tâm của Phật học, cả hai phương hướng trong việc tìm kiếm sự thật - chân lý đã mở rộng kiến thức và sự hiểu biết của chúng ta.

Sự đối thoại giữa khoa học và Phật học là một sự đàm luận hai chiều. Những Phật tử chúng tôi có thể sử dụng những khám phá của khoa học để làm sáng tỏ sự hiểu biết của chúng ta về thế giớichúng ta đang sống. Nhưng các nhà khoa học có thể cũng cũng có thể sử dụng một số tuệ giác từ Phật học. Có nhiều lãnh vực mà trong ấy Phật học có thể có thể đóng góp đối với sự thấu hiểu của khoa học, và trong những đối thoại Tâm ThứcĐời Sống đã tập trung trên một số chủ đề.

Thí dụ, khi đi đến sự hoạt động của tâm thức, Phật Giáo với khoa học nội tại hàng thế kỷ đã là mối quan tâm thực tiển đối với những nhà nghiên cứu về nhận thức và khoa học thần kinh và trong nghiên cứu về các cảm xúc, sự đóng góp trong những cống hiến nổi bật đối với sự hiểu biết của họ. Theo dõi những cuộc đối thoại của chúng tôi, vài nhà khoa học đã phát khởi những ý tưởng mới đối với việc tìm kiếm trong những lãnh vực họ.

Trái lại, Phật Giáo cũng có thể học hỏi từ khoa học. Tôi đã thường nói rằng nếu khoa học minh chứng những sự kiện xung đột với quan niệm của Phật Giáo, Phật Giáo phải thay đổi cho phù hợp. Chúng ta phải luôn luôn chấp nhận một quan điểm phù hợp với cơ sở lập luận. Nếu trên sự khảo sát chúng ta thấy rằng có lý do và sự chứng minh cho một quan điểm, thế thì chúng ta phải chấp nhận nó. Tuy nhiên, một sự khác biệt rõ ràng phải được thực hiện giữa những gì không thể được tìm thấy bởi khoa học và những gì được tìm rakhông tồn tại bởi khoa học. Những gì khoa học tìm thấy là không hiện hữu tất cả chúng ta nên chấp nhận như không tồn tại, nhưng những gì khoa học chỉ đơn thuần không tìm thấy lại là một vấn đề hoàn toàn khác biệt. Một thí dụchính tâm thức. Mặc dù chúng sinh, kể cả loài người, từng trải nghiệm tâm thức trong hàng thế kỷ, nhưng chúng ta vân không biết tâm thức thật sự là gì: bản chất trọn vẹn của nó và nó thể hiện chức năng như thế nào.

 

Trong xã hội hiện đại, khoa học đã trở thành một năng lực chính yếu trong sự phát triển của loài ngườithế gian. Trong cách này, những sáng kiến kỷ thuật chịu trách nhiệm cho tiến trình vật chất vĩ đại. Tuy nhiên, khoa học không có tất cả những câu trả lời, nhiều hơn bất kỳ tôn giáo nào đã làm trong quá khứ. Càng theo đuổi sự cải thiện vật chất, quên lãng ý toại nguyện đến từ sự phát triển nội tại, những giá trị đạo đức càng biến mất một cách nhanh chóng hơn trong xã hội chúng ta. Rồi thì tất cả chúng ta sẽ phải trải nghiệm những nổi khốn khổ trong tương lai dài về sau, vì khi ấy không có chỗ cho công lý và lòng trung thực trong trái tim con người, những kẻ yếu sẽ là những người chịu khổ sở đầu tiên. Và những sự phẩn uất kết quả từ sự bất công căn bản ấy ảnh hưởng một cách thù địch đến mọi người.

Với sự tác động lớn mạnh không ngừng của khoa học đến đời sống chúng ta, tôn giáotâm linh có một vai trò lớn hơn trong việc nhắc nhở chúng ta về loài người chúng ta. Những gì chúng ta phải làm để cân bằng tiến trình khoa học và vật chất với ý nghĩa trách nhiệm đến từ sự phát triển nội tại. Đó là tại sao tôi tin tưởng cuộc đối thoại này giữa tôn giáo và khoa học là quan trọng, vì từ đấy có thể đi đến những sự phát triển có thể lợi lạc lớn lao cho nhân loại.

Khi nói đến những rắc rối của con người biểu thị bởi những cảm xúc phiền não của chúng ta, Đạo Phật có nhiều điều để nói với khoa học. Một mục tiêu trọng tâm của sự thực tập Phật Giáo là để giảm thiểu năng lực của những cảm xúc tàn phá trong đời sống chúng ta. Với mục tiêu ấy trong tâm, Đạo Phật cống hiến những lý thuyết tuệ giác và những phương pháp thực hành ở những trình độ thứ bậc rộng rãi. Nếu bất cứ những phương thức nào trong đây có thể được biểu lộ qua những sự thử nghiệm khoa học là có lợi ích, thế thì có mọi lý do để tìm ra những phương cách để làm cho chúng tiện lợi đến mọi người, cho dù người ta có quan tâm đến chính Đạo Phật hay không.

Những sự lượng định khoa học như vậy là một kết quả trong sự đối thoại của chúng tôi. Tôi vui mừng để nói rằng cuộc thảo luận Tâm ThứcĐời Sống trình bày trong quyển sách này hơn là một gặp gở của những tâm thức giữa Phật học và Khoa học. Các nhà khoa học đã đi một bước vươn xa và đã từng bắt đầu những chương trình để thử nghiệm một vài phương pháp của Đạo Phật có thể hữu ích đến tất cả những sự đối phó với các cảm xúc phiền não.

Tôi kêu gọi độc giả của quyển sách này tham gia trong những sự giải thích của chúng tôi về các nguyên nhân và chửa trị cho những cảm xúc tàn phá, và để quán chiếu trên nhiều câu hỏi được nêu lên có tầm trọng thuyết phụcthôi thúc tất cả chúng ta. Tôi hy vọng các bạn sẽ tìm thấy sự chạm trán này giữa khoa học và Đạo Phật cũng hào hứng như tôi.

Đạt Lai Lạt Ma thứ 14

Ngày 28-8-202

Nguyên tác: Lời giới thiệu của Đức Đạt Lai Lạt Ma cho quyển Destructive Emotions - How Can We Overcome Them?

Ẩn Tâm Lộ ngày 22-8-2012



#80
tritanngo99

tritanngo99

    Đại úy

  • Điều hành viên THPT
  • 1644 Bài viết
Phương Pháp Khoa Học Đối với Phật Giáo
Francis Story - Tịnh Quang-Tịnh Anh dịch
 
phat-giao-khoa-hoc.jpg  Quán chiếu thế giới như Đức Phật dạy, nhìn nó, chúng ta có thể cân nhắc những giá trị của nó xuyên qua những trình độ cao nhất được biết với chúng ta. Và trong tiến trình quán xét và thẩm định, Phật giáo khuyến khích chúng ta thâm cứu tất cả những nhân tố của kinh nghiệm, không bao vây chúng ta với những giáo điều độc đoán, hoặc cố chấp vào những tư tưởng định kiến.

  Nhà khoa học trứ danh Bertrand Rusell đã tóm tắt  lập trường về quan điểm Triết học hiện đại như sau:”Giả sử vật lý học mà ông ta đại khái trình bày đúng, chúng ta có thể biết nó là đúng hay không? Và nếu câu trả lời là đúng trong sự khẳng định, điều này có bao hàm sự hiểu biết về các chân lý khác bên cạnh những lý thuyết về vật lý không? Chúng ta có thể nhận thấy rằng, nếu thế giới như vật lý học tuyên bố nó không phải là một tổ chức biệt lập để chúng ta có thể hiểu được nó là cái này hoặc cái kia. Nếu môt tổ chức có thể tự hiểu nó là như vậy, nó phải biết một vài điều khác hơn vật lý học, nhiều nguyên tắc đặc biệt nào đó có thể suy diễn.( “Physis and Experience”, Cambride University Press)

     Lập trường này đòi hỏi một chút giải thích mở đầu. Vào những ngày khi khoa học được tin tưởng nắm giữ chiếc chìa khóa với tất cả sự bí mật của vũ trụ. Sự lý giải hão huyền về đời sống tiếp tục thống trị không thể chố cãi. Khoa học, nó đã là quan điểm, chỉ có di chuyển cái chìa khóa-nghĩa là mở hạt nguyên tử ra để khám phá-và tất cả căn nguyên hiện tượng vật chất sẽ được phơi bày. Tất cả tiến trình đời sốngtư duy được tin tưởng rằng có một nguồn gốc và căn bản cụ thể, và không có cơ sở dành cho những khái niệm về Tôn giáo siêu nhiên. Mọi thứ là sự tiến hành máy móc đối với nguyên do và hệ quả, không có gì vượt quá.

     Tính hiển nhiên oh của vật lý học đến mức nó đi ào ào, và đã chứng minh qua những sự phát minh về Thiên văn học, Tâm lý học và thuyết Tiến hóa Darwinian, điều mà nhà khoa học cho rằng họ hiểu thế giới tự nhiên với những tiến trình nguyên tử rõ ràng. Nếu lập trường liên quan trực tiếp và ảnh hưởng đối với tất cả những phần thuộc về nguyên tử trong vũ trụ ở bất kỳ phút giây nào đó đã đưa ra là đuợc biết đến, mỗi một biến cố tương lai trong không gianthời gian đã có thể dự đoán một cách chính xác. Nó là câu hỏi duy nhất về việc tiếp thu dữ liệu.

     Trong khi chìa khóa thời gian đã chuyển hướng, việc lập trình về nguyên tử đã đựợc giải thích, nhưng nó đã tìm đến sự phân giải với chính nó tạo thành tiềm năng. Một chu trình biến hóa từ một hình thái của sự phóng xạ trở thành cái khác, một chu kỳ liên tục của sinh và diệt của những hạt điện tử. Và sự khám phá về việc thay đổi cơ khí lượng tử khác đã bước vào kế hoạch lập trường quan hệ nhân quả đã được chấp nhận.

     Điều này được hiểu rằng, mặc dầu nguyên tắc về Tính có thể dự đoán vẫn đúng với những số lớn đối với những tiền tố nguyên tử, nhưng nó không làm căn cứ cho yếu tố về thuyết định mệnh vốn không tuyệt đối, nó có thể ứng dụng duy nhất cho việc thống kê hoặc số học, nơi mà nhóm nguyên tử lớn đang đang còn phối hợp nhau. Khái niệm mới này đã mở ra con đường với những gì được gọi là nguyên lý không vững chắc.

     Từ quan điểm Triết học, đó là sự trình bày một cách chính xác, không liên quan đến các nhà khoa học thuần túy-những người chỉ bận tâm đến các sự nghiên cứu hiện tượng không liên can chính nó. Nguyên tắc không vững chắc này làm cơ sở cho quan điểm tự nguyện, điều này thiếu vắng tư tưởng cần thiết về một vũ trụ được xác định hoàn toàn bởi nguyên lý quan hệ về nhân được xác định là không biến đổi.

     Với sự thay đổi hơn từ khái niệm Tĩnh đến Động của vật chất, khoa học đã không thay đổi học thuyết Duy vật của họ, bởi vì khoa học bằng tự nhiên của nó phải nắm bắt nội dung hoặc tính chất của sự vật với những điều mà nó đang hoạt động, nhưng một sự thay đổi triệt để đã xảy ra trong những khía cạnh tư tưởng nhận thức của chính nó, con người, và công việc tư duy của ông ta là một phần của vũ trụ, và sự khảo sát của ông ta về hiện tượng của nó giống như một người nhìn vào thao tác bộ óc của chính mình. Ông ta đang nhìn vào đó với cái mà ông ta đồng nhất chính mình. Ông ta không thể đi ra ngoài và quan sát nó một cách khách quan. Bức tranh của vũ trụ đã hiện diện xuyên qua những giác quan của ông ta thì hoàn toàn khác biệt từ bức tranh đã đựơc cho bởi vật lý học. Nơi mà tri giác của ông ta bảo với ông ta sự kiên định từ vật chất, vật lý học bảo với ông ta không có gì ngoài sự sắp xếp của những trạng thái thay đổi không ngừng của sự sinh diệt nhanh chóng, và hơn nữa , những hình thái rắn chắc đó thật sự không có gì, nhưng những biến cố trong không-thời gian thì liên tục, và cái gọi là chủ thể vật chất chính là không gian chủ yếu của chính nó. Không có một thể đồng nhất như thế khi chúng ta hiểu sự giới hạn. Nó đơn thuần là sự quy ước diễn dịch dựa trên dữ liệu lừa dối được cung cấp bởi những giác quan của chúng ta, chỉ có thể có nghĩa tiếp xúc với những biến cố ngoài tự thân và dữ liệu của vật lý học, tương tự như thế, nó phải ảnh hưởng đến chúng ta xuyên qua những giác quan. Do đó vấn đề xuất hiện, chúng ta có thể biết nó luôn luôn là hình ảnh nào đó được đại diện bởi vật lý là một điều đúng? Hình ảnh này, nó phải bị hồi tưởng là một hình ảnh thuộc về lý thuyết thuần túy, nó là một đề tài lớn của những công thức toán học, từ tư tưởng phải tạo nên bất cứ sự tưởng tượng nào tương đương mà nó có thể. Vũ trụ của vật lý là một khái niệm hoàn toàn của trí óc, chúng ta không thể tạo ra bất kỳ hình ảnh nào về không gianthời gian nhiều chiều của Einstein, cho nên chúng ta phải dựa vào bằng chứng của toán học, điều này để lộ một khía cạnh mới hoàn toàn nằm ngoài phạm vi kinh nghiệm thông thường của chúng ta. Tuy nhiên nhà vật lý học đã đi đến sự ngờ vực ngay cả công việc đối với quan điểm của chính ông ta, từ đó nó là một phần chính nó của sự bịa đặt hoàn toàn không thật, và thế là ông ta phải thúc đẩy với việc tự đặt câu hỏi để thay đổi “nếu vật lý học là đúng, thì nó có thể cho chúng ta biết nó là đúng?” Toàn bộ sự liên hệ từ chủ thể này đến chủ thể khác là như vậy đã quy về câu hỏi. Khi sự chú tâm đã ghi vào ấn tượng thì chúng ta gọi là “quán chiếu một chủ thể”, chúng ta có thể là cái gì đó mà sự vật đã được thấy thực sự tồn tại bên ngoài chúng ta, hoặc có bất kỳ biến cố nào đó xảy ra trong không-thời gian chứa đựng sự tương đồng không đáng kể với những gì mà chúng ta suy tư hoặc thấy được? Khoa học có thể không cho chúng ta sự đảm bảo đối với điểm này.

     Quan điểm khoa học về hiện tượng vũ trụ đã tác động đến bệ đài này. Và dường như không thể đi qua nó, để thấy hình ảnh trong sự hoàn hảo của chính nó, một tư tưởng được đòi hỏi tự thân nó không liên lụy trong tiến trình hiện tượng, một tư tưởng siêu việt là bên ngoài lãnh vực của quan hệ nhân quả và sự liên hệ từ chủ thể này đến chủ thể khác. Nó phải biết vài điều khác hơn vật lý học.

      Đến nay, khoa học đã hỗ trợ cho chúng ta với phương pháp của chính nó, để hiểu những nguyên lý Phật giáo về Vô thường (anicca), Khổ (Dulkha) và Vô ngã (Anatta), với sự giải thích mà nó đem đến cho thế giới là sự dung hòa hoàn hảo qua triết học Phật giáo “tiến trình hằng chuyển của vũ trụ” đẩy lùi cái Không cố hữu về vật chất là nguyên tắc cơ bản của Phât giáo. Sự vận hành đã được quan sát một cách thực tế trong đỉnh của oh thiền định. Những thành phần nguyên tử đã được thấy và hiểu, và cái khổ của sinh và diệt đã tạo thành sự hiểu biết của chính nó với tư tưởng, chấm dứt sự đồng hóa mà hắn ta vận hành với những gì mà chúng ta gọi là “tôi”, ảo tưởng Sakkaya-ditthi (hành uẩn). Sự hiểu biết siêu phàm của Phật giáo bắt đầu nơi mà khoa học từ bỏ, nhưng bởi Phật giáo đã y cứ vào tri giác trực tiếp đối với chân lý cuối cùng, nó chỉ thuộc về tự nhiên mà những khám phá của khoa học phải củng cố như họ đang làm hôm nay.

     Toàn bộ tiến trình ảo thuật sinh và diệt của hiện tượng có thể được bao hàm trong từ ngữ “Maya”. Từ này thường được dịch như “ảo tưởng” nhưng mà không chính xác hoàn toàn, lãnh vực của Maya là sự quan hệ chặc chẽ, nghĩa là nó hiện hữu trong tầng số của chính nó, nhưng nó không xác thực trong bất kỳ ý thức tuyệt đối nào. Với sự vận hành nhận thức trên tầng số tương tự, hoặc giống như tầng số rung động. Một thể rắn là sự đồng nhất chính xác khi nó xuất hiện xuyên qua Panca-dwara của những giác quan. Nhưng với sự tác dụng nhận thức trên một cấp số khác nhau, sự đồng nhất sẽ được thấy trong một chiều khác biệt; nó sẽ xuất hiện như vật lý nói với chúng ta nó là, một sự tập hợp của phân tử trong sự chuyển động liên tục, cái thể khối vẫn được thấy như mãnh lực không gian, với những phân tử rộng đã chia ra, giống như những ngôi sao trên bầu trời, và chỉ có những cánh đồng trong khoảng không với ảnh hưởng điện từ của lực hút và lực đẩy. Ngay như phương pháp liên hệ tương tự với những hệ thống hành tinh của vũ trụ là được thiết lập chung nhau. Từ một tầng số khác nó sẽ được đơn giản như thao tác của một nguyên tắc. Và từ mặt phẳng khác của ý thức nó sẽ tìm thấy sự không tồn tại, ở đây có thể là sự trống không, hoặc Pháp không. Mặt phẳng đó sẽ nằm bên ngoài của vòng quan hệ nhân quả, một trạng thái không thể suy lường với tuệ giác vốn có, điều này phụ thuộc trên những biến cố trong không gian-thời gian với sự hiểu biết của chính nó, và chúng ta có thể coi như nó tương đương với trạng thái cơ bản của Nibbania (Niết bàn). Trạng thái này không sinh mà cũng không diệt. Sự liên tục của không gianthời gian của khái niệm về hiện tượng đã được vượt qua với sự vô tận, trạng tháiđiều kiện sẽ có thể đạt tới.

     Những tầng số cao của ý thức trong cái thể khối thì được thấy trong những khác biệt, mỗi chiều hướng với những khía cạnh phi vật chất hơn cái đứng trước nó, có thể được xem như bốn Brahma-viharas (trụ xứ thanh tịnh), nơi mà ý thức đã được tự do từ ảo tưởng vật chất thô phù và những cảm thức thay cho định luật thống trị tiếp sức để biết nó. Cuối cùng, “vật chất” đó chỉ là sự biểu lộ của những qui tắc trên, xuất hiện trong những khía cạnh khác biệt trên những mặt phẳng khác nhau của sự nhận thức. Với Kamavàcara- citta (tâm), hoặc hình thái Rupa (sắc)xuất hiên đồng nhất, và trên tầng số đó nó là những gì mà nó xuất hiện; nhưng ý thức nhìn nó trong ánh sáng của Pháp, định luật nhân quả trở nên rõ ràng, và trong vị trí của Rupa thì ba đặc tính thích hợp đã được nhận raVô thường, Khổ và Vô ngã. Có ba dấu hiệu mà người ta đã đi đến sự kết thúc cuối cùng của chính mình trên mặt phẳng trí tuệ, họ đi tới điểm thấp nhất trong việc nhận thức về hiện tượng vật chất, nhưng điểm bí mật cuối cùng của nó vẫn xuyên qua chính họ. có nhiều kiếp sống trước kia, cái mà tư tưởng không có khả năng khảo sát, bởi vì vòng nhân quả trong chiều hướng chuyển động đã hoàn thành. Trạng thái kế tiếp của sự phát triển phải nằm trong một khía cạnh khác biệt. Xảy ra trọn vẹn để mang đến một sự tái định hướng của tất cả quan niệm chúng ta đối với con ngườikhông gian của nó trong mô hình vũ trụ, và nó tiêu biểu với một lợi thế cao cho cả quan điểm Duy tâmDuy vật đã thịnh hành trước đây. Giống như mọi thứ khác, nhân tố xoay quanh trong một vòng tròn, giáp điểm với sự hạn chế của suy tư thuộc về nhận thức, và điểm nhọn xung quanh mà nó xoay là sự khác nhau của tiến trình phân biệt đang được nghiên cứu từ “bản ngã”, đang khảo sát nó. Đây là sự chướng ngại căn bản Sakkaya-ditthi, bởi vì sự thực thì không có “tự ngã” tách rời tiến trình. Với quan điểm hiện đại thì không có cái như là “tôi”, thế giới là sự đối thoại ngữ pháp một cách đơn thuần, mỗi một thế giới mà bây giờ chúng ta biết thuộc về quá trình của tư tưởng, có thể được trình bày không qua ngôn ngữ. Chúng ta hiểu điều này cũng đã dựa vào những thẩm xét của Bertrand Rusell và những nhà nghiên cứu khác.

     Những khám phá của Vật lý học có bản đối chiếu trong tâm lý học. Trong sự phân tích đối với sự vận hành thuộc về tâm linh là sự phối hợp cao của hành vi che dấu và được mang ra ánh sáng, và xác định những quan hệ nguyên nhân đã tùy thuộc giữa cấp độ ý thức và không ý thức của tư tưởng. Những điều không ý thức thì được lưu trữ trong kinh nghiệm tích lũy của cá nhân, cung ứng những khuynh hướng để thúc đẩy những hành động ý thức. Cho nên nó có thể đồng nhất với Bhavanga (tiềm thức), hoặc Đời Sống Liên Tục, điều này thay thế vị trí của bất kỳ thực thể liên hệ nào giữa phương diện ý thức và sự nối tiếp. Giáo sư William James là nhà tâm lý học đầu tiên tạo ra công thức học thuyết Point-moments (điểm khoảnh khắc) của ý thức. Ông ta chứng minh rằng những Points-moments này là sự sinh ra và biến mất trở lại trong sự tiếp nối nhanh chóng, do vậy nó phát sinh ấn tượng về một thực thể tiếp nối, trong khi chúng nó thật sự chỉ là những phần Vi phân của chuỗi kế tiếp, mỗi sự tồn tại với một phân số của một kẻ hở của tích tắc giây, và rồi diệt mất để nhường chỗ cho sự kế tiếp của nó. Thực tế, chúng nó giống như hàng ngàn bức tranh Tĩnh học trên một cuộn phim, khi nó chạy qua máy chiếu, tạo thành những ảo giác về hình ảnh di động một chiều. Xa hơn, chúng ta chỉ biết được về sự rời rạc trong khoảnh khắc diệt của nó, bởi vì chúng nó thỉnh thoảng được gọi là những chỗ chết, và những ý thức tổng hợp thì còn tùy thuộc ở trên ký ức.

     Điểm khoảnh khắc này, phát triển trong sự phục tùng với định luật nhân quả, mỗi cái có nguồn gốc nguyên nhân với cái đi trước nó, nhưng không có sự liên hệ khác giữa chúng nó. Trong những chiều hướng tâm lýchúng ta chợt bắt gặp là tiến trình nhân quả và trong trạng thái liên tục của sự thay đổi không ngừng trong tư tưởng. Lần nữa, như trong vật lý học, chúng ta chỉ tìm sự quan hệ về nguyên nhân và sự phân tích A tỳ Đạt Matác dụng tốt trong mọi chiều hướng của đời sống.

     Freud đã tiến thêm với lập trường đối với mỗi một hành vi rõ ràng của sự tỉnh thức bị xúi dục bởi một nguyên nhân đứng trước, và không có quan điểm nào có thể xuất hiện một cách tự động. Điều mà ông ta chứng minh về “ Tâm Lý Học Đời Sống Hằng Ngày” của ông ta. Khi nguyên nhân đã không thể tìm được trong ý thức, ông ta tìm nó trong vô thức. Những sự nghiên cứu của ông ta đã hướng dẫn ông ta đến học thuyết gọi là accidents (sự tình cờ) vốn là kết quả mong mỏi của tiềm thức, trong thực tế chúng nó đã được quản lý bởi tiềm thức vì những lý do của chính chúng. Học thuyết này đã được tranh luận bởi những nhà nghiên cứu về sau, tuy nhiên Freud đã tập hợp một khối lượng kinh khủng cho việc chứng minh trong khi nghiên cứu về nó.

 

     Dựa theo quan điểm Phật Giáo, điều này xuất hiện ít nhất một chân lý cục bộ. Bởi vì ở tầng vô thức của tâm chứa đựng những khuynh hướng và sự thiên lệch về cá nhân, đây là những ảnh hưởng của Nghiệp đã tích lũy, nó là sự hoạt động của phần ý thức đó để xác định những kinh nghiệm và những biến cố của đời sống chúng ta. Nó không phải là ý chí vô thức tác động những biến cố, bởi vì nó có sự tự nhiên duy nhất của tiềm thức(bhavanga), một sự luân chuyển đã trực tiếp bởi những tư tưởng tập khí của quá khứ, và thiếu đi đặc tính của ý chí-một đặc trưng của giác ngộ; tuy nhiên những biến cố, chẳng hạn như accidents được xác định một cách chắc chắn bằng vô thức trong sự tháo gỡ những chức năng máy móc của nó về việc phóng chiếu những tình thế trên để thiết lập những kinh nghiệm cá nhân trong tình trạng giống với Kamma (Nghiệp) “Mano Pubbangama dhamma; manosettha, manomaya,” “Muôn pháp khởi động từ tâm, tâm là vị lãnh tụ, mọi thứ đều do tâm tạo”. Sự sai lầm đơn thuần của Freud là ông ta mắc phải một sự nhận thức cục bộ về phương pháp nhân quả trong tiềm thức đối với hoạt động của ý chí. Đó là tại sao học thuyết của ông ta chẳng bao giờ được chứng minh một cách hoàn hảo, mặc dù có tỷ lệ kết quả cao trong những cuộc thí nghiệm của ông ta. Nó là sự điển hình khác về khoa học cho việc đến gần Phật giáo, nhưng thiếu đi chiếc chìa khóa-sẽ không mở được cánh cửa cuối cùng.

     Những nhà Duy vật khẳng định rằng tâm và hoàn cảnh bên ngoài có một căn bản chủ yếu; với nhà Duy tâm, ngược lại, xác nhận rằng vật chất tồn tại chỉ bởi tác dụng của tâm. Nhà duy vật viện dẫn bằng chứng rằng Tâm chỉ là một sản phẩm của trí óc-môt vật thể thuần vật chất. Những vật thể vật lý tồn tại trong không gian đã bị va chạm xuyên qua hệ thống dây thần kinh hướng về mắt, tai, mũi, lưỡi và bề mặt của da. Kết quả cảm giác này tùy thuộc vào sự tồn tại của não bộ, một trung tâm thần kinh phức tạp của vật chất với chức năng đặc biệt của chính nó của sự tập hợp và tương ứng với dữ liệu mà nó đã nhận. Nếu não bộ bị nguy hiểm nó hoạt động một cách không hoàn hảo. Nếu nó bị tàn phá, nó không còn chức năng nào cả. Tâm, do vậy được xem là một động lực tùy thuộc hoàn toàn vào nhân tố vật chất.

     Tính hợp lý của quan điểm này không thể chối từ được, nhưng nó không biện minh được đối với tất cả trường hợp.Nếu sự tiến hành một cách chính xác đối với máy móc đã quyết định những căn nguyên vật lý-có thể quay lại với nguyên lý vật chấttuân theo định luật nhân quả cứng ngắc, không có cơ hội đối với việc thực nghiệm tự ý. Sự tiến triển rồi trở thành một quá trình máy móc có quyết định, nó không có tự do chọn lựa giữa những chọn lựa có thể. Nhưng ngay cả chu trình sinh vật học vẫn đòi hỏi như một sự chọn lựa từ sản lượng của các loài đặc trưng được cho là do sự chọn lựa của tự nhiên. Những loài đó, như là voi răng mấu, khủng long brontosaurus, thằn lằn ngón cánh và tất cả những loài tuyệt chủng khác-đã tạo thành động vật  được chọn của sự phát triển, phù hợp với chúng trong một môi trường thích hợp, và biến mất khi môi trường đó đã thay đổi. Chúng nó đã quá đặc biệt và không thể thích nghi với bản thân của chúng nữa. Không có sự tự động nào về quá trình của các loài, hay nó đã được điều khiển bằng một hệ thống thử nghiệm sai lầm, và ít nhất cũng chỉ ra rằng càng thất bại càng có kết quả. Có một vài người cho rằng, con người tự thân phải bị kẹt vào giữa những sai lầm, từ đó ông ta chứng minh một  khuynh hướng tự hủy, bởi vì sự thật việc tiến triển tâm linh của ông ta đã không theo kịp ưu thế tăng dần của vật lý.

     Quan điểm về sự phát triển đúng đắn trong sự tiến hóa đã được loại bỏ bởi khoa học, và nếu học thuyết hiện đại tăng thêm sự phù hợp với những gì chúng ta biết về sự tiến hóa như nó ứng dụng đối với cá thể. Sự tiến hóa đó đòi hỏi tự do về việc chọn lựa giữa sự xen kẻ của những hành động đúng và sai. Có sự phát triển hoặc thoái bộ, xuyên qua sự hướng dẫn của Nghiệp (Kamma) tốt hay xấu, và toàn bộ khái niệm về Nghiệp dựa trên ý chí. Nó không phải là học thuyết định mệnh khi nó thỉnh thoảng bị giải thích sai. Hành động trước quyết định những kinh nghiệm và những hoàn cảnhcon người phải đối diện trong đời sống, nhưng nó có những khuynh hướng đặc biệt đối với cá nhân, nó là sản phẩm của những hành động tích lũy của ý chí, cái mà quyết định cách mà chúng ta gặt hái những hoàn cảnh đó khi chúng ta xuất hiện, không có sự “ tình cờ” như trong định lý tự nhiên, nhưng “ nguồn gốc không căn cứ” mà chúng ta đã khám phá trong vật lý học thừa nhận đối với sự nghiên cứu về những nguyên nhân chưa được biết tới, như trong hoạt động không thể đoán trước của những nguyên tử biệt lập. Trong trường hợp của một cá nhân, ví dụ, nó có thể dự đoán tương đối chính xác cách mà cá nhân sẽ hành động trong một tình thế được cho khi những xu hướng đặc biệt của ông ta đã được biết, nhưng không thể bảo đảm tuyệt đối chắc chắn. Một người lương thiện có thể, dưới áp lực của hoàn cảnh, hoặc vì khuynh hướng ngấm ngầm của Nghiệp, hành động một cách không lương thiện, hoặc một người dũng cảm trở thành nhát gan và ngược lại. Điều này giải thích sự tương phản và thường xuyên xảy ra đối với bẩm sinh của con người. Chúng ta có thể chẳng bao giờ có sự tuyệt đối nào đó về những cá nhânchúng ta suy nghĩ và biết như thế, sẽ luôn luôn hành động một cách chính xác “trong cái đặc tính”. Cá nhân là một mô hình thay đổi, biến đổi từng khoảnh khắc, và duy nhất bị hướng dẫn bởi căn nguyên rộng lớn nào đó-tiêu biểu Sankkhara(hành uẩn). Những xu hướng tích lũy hoặc thói quen tập nghiệp tạo thành. Liên quan với những cơ cấu tập nghiệp này, nó được trình bày duy nhất trong hệ thống Phật giáo, nó đưa ra vị trí quan trọng phù hợp với chính chúng trong lược đồ của tiến trình cá nhân. Qua tập nghiệp đó mà chúng ta được khuyên phải loại trừ những khuynh hướng xấu và đẩy mạnh những điều tốt. Sự hình thành tâm lý của chúng ta như thế xuyên qua hành động tích chứa của động lực tích cực như được biểu thị bằng bốn sự nỗ lực chân chánh (sammappadhama), đây là một trong 37 phẩm trợ đạo. Bây giờ, tập nghiệp và sự kết nối tư tưởng quan hệ chặt chẽ, như trong tâm lý học hiện đại đã chứng minh, trong kinh nghiệm của chính hắn trên sự phản chiếu hoàn cảnh. Plavlov đã xác minh sự quan hệ giữa những tư tưởng liên kết và những phản ứng vật lý. Những con chó mà ông ta dùng cho sự nghiên cứu của ông ta được huấn luyện để liên kết với âm thanh của một cái chuông, hoặc một vài tiếng ồn khác, với tư tưởng về thức ăn, khi chúng nó nghe tiếng đặc biệt đó, chúng đã biểu hiện những phản ứng giống nhau như thể chúng nó đang nhìn hoặc đang ngửi thức ăn. Miệng của chúng chảy nước, và chúng tỏ vẻ vui mừng, điều này chứng tỏ rằng âm thanh và tư tưỏng về thức ăn đã trở nên liên kết chặt chẽ trong chúng. Tư tưởng của một con chó thì rất đơn giản khi so sánh với con người, điều này dễ dàng hơn trong việc tìm thấy sự tiếp nối của những biến cố và hệ quả vật lý của nó. Nó hoạt động hầu hết hoàn toàn trên hệ thống này của sự phản chiếu được quy định. Khả năng lý luận là sơ bộ, và khi chúng ta đi xuống trong hình thức của hệ thống sinh vật chúng ta thấy rằng chúng nó trở nên nhiều thuộc tính bản năng hoặc như cái máy. Ví dụ, con kiến nhỏ hơn phần tử của cái máy, bị điều khiển bằng một tư tưởng nằm ngoài chính nó. Những cuộc thí nghiệm gần đây với những loài kiến trắng đã cho thấy rằng, đầu đàn là con kiến chúa, và đàn kiến phải được xem xét như một vật đơn giản, với não bộ và tế bào thần kinh tập trung của nó đặt vào vị trí của con chúa. Nếu con chúa bị tiêu diệt, những con kiến trở thành hỗn độn, chạy cuồng loạn khắp nơi, và hệ thống trật tự của bầy kiến hoàn toàn tan rã. Do vậy, cá thể của loài kiến không phải là một sinh vật hoàn toàn với chính nó, nó duy nhất là một phần của tổng thể. Chúng nó như chân tay của thân thể chính, bị tháo gỡ ra từ nó, nhưng chức năng trong tất cả khía cạnh giống như những bộ phận của động vật đơn thuần. Điều này cho thấy rằng, chúng nó được trực tiếp bằng một loại hệ thống radar phát ra từ con kiến chúa. Khi con kiến chúa bị giết hoặc bị thương giống như não bộ của loài kiến đó bị hãm hại; chức năng di chuyển không còn sự phối hợp, giống như người mất trí. Nhưng não bộ của sinh vật-con kiến chúa thì hoàn toàn giới hạn ở cơ giới (kỹ thuật), nó thực hiện những chức năng đòi hỏi của nó đối với sự sống còn của đàn kiến. Xuyên qua khuynh hướng cố hữu chuyển giao từ một thế hệ của những con kiến chúa với vật cùng loại. Trong phạm vi giới hạn của nhu cầu chính nó là một sinh vật hoàn hảo, nhưng nó không có khả năng phát triển xa hơn. Tại sao như thế? Chúng ta chỉ có thể tổng kết rằng, có sự ảnh hưởng mục tiêu phát triển giới hạn của nó, nó không cần phải luyện tập bất kỳ sự chọn lựa nào nữa giữa những gì có khả năng thay đổi đồng loại; nó đã giao lại năng lực tự nguyện và đã trở thành một sự sắp đặt tự động. Nó biểu thị một trong những tầng số của ý thức bị thống trị hoàn toàn bởi Nghiệp-những kết quả của nguyên nhân trước đã phát ra ngoài ở bất cứ cơ hội nào cho việc dùng nó đối với sự lợi thế, và có thể được xem xét như sự điển hình của ý thức đặc thù đối với tất cả bốn mặt phẳng của Apaya trong những tầng số khác nhau. Câu hỏi là đã được phối hợp với lãnh vực Puggala-bhedo trong Abhidhamma (A tỳ Đạt Ma).

     Có một sự tương đương với loại ý thức tự động được tìm thấy trong một vài con người và con kiến, có thể được xem như sự cảnh cáo đối với những ai hy sinh nền độc lập của họ với quan điểm trở thành nô lệ cho quyền thế và truyền thống. Họ hy sinh chính họ như một con kiến ý thức, và nếu họ biểu lộ như những con kiến, đó là sự lựa chọn của chính họ. Sự trình bày quan điểm với chủ nghĩa độc đoán là sự dễ dàng và phương thức tiện lợi thoát khỏi mối nguy và sự đau đớn đối với việc tạo nên một sự chọn lựa độc lập. Nhưng con ngườimôi giới tự do, và sinh làm người là một trách nhiệm to lớn. Việc nhận thức những trách nhiệm đó là chúng ta không nên ném chúng đi một cách nhẹ nhàng, bằng việc chứng minh một cách chính xác nơi mà chúng ta đang đứng trong sự liên hệ với vũ trụ xung quanh và bên trong chúng ta. Phật giáo cho chúng ta sự hiểu biết trong sáng nhập vào tiềm lực thiêng liêng của bản tính vốn có. Nó là sự xác nhận quả quyết về sự tự do của con người trong việc lựa chọn vận mệnh của chính mình.

     Các Triết gia Tây phương hiện đại đã bị hoang mang bởi sự nhầm lẫn trở thành những điều suy đoán đã chỉ huy họ. Họ thấy một vũ trụ tác động hỗn loạn không có điểm cố định, sự thay đổi ảo cảnh trong tổng thể là bóng tối nhưng không có vật chất, và họ đã quan sát bằng ảo tính với những gì họ thấy. Tư thế vận dụng trí óc của họ vẫn tương đối hiển nhiên như nỗi “thất vọng của anh hùng.” Sự khảo sát không phải căn cứ cho niềm tin trong những giá trị đạo đức, họ đi đến câu hỏi, chúng nó có bất kỳ nghĩa tuyệt đối nào hay không, hay sau tất cả chỉ là sản phẩm tưởng tượng chọn lọc của con người. Đời sống đối với họ đã trở thành “một câu chuyện ngắn được kể bởi một thằng ngốc; đầy ắp âm thanh và sự giận dữ, chẳng có sự biểu hiện gì cả.” Những tư tưởng trừu tượng, chẳng hạn như sự công bằng, lòng nhân từ, trí tuệchân lý dường như đối với họ là những đặc tính liên hệ, thôi thúc bởi tình huống và sự khác biệt từ thời đại này đến thời đại khác. Thế là những tiêu chuẩn đạo đức theo sau để bỏ đi những nhu cầu có tính thích hợp.

     Phật giáo chỉ có thể cung cấp sự thiếu vắng cơ bản của trí tuệ cao hơn-điều gì đó khác hơn vật lý học-nó làm nhân tố cho tất cả những căn bản khác đặt vào vị trí và hình thể hoàn hảo với  bức tranh dễ hiểu. Quán chiếu thế giới như Đức Phật dạy, nhìn nó, chúng ta có thể cân nhắc những giá trị của nó xuyên qua những trình độ cao nhất được biết với chúng ta. Và trong tiến trình quán xét và thẩm định, Phật giáo khuyến khích chúng ta thâm cứu tất cả những nhân tố của kinh nghiệm, không bao vây chúng ta với những giáo điều độc đoán, hoặc cố chấp vào những tư tưởng định kiến. Chính Đức Phật là Bậc Thầy Tôn giáo đầu tiên trong thế giới này ứng dụng phương pháp khoa học chặt chẽ với sự phân tích về sự hiện hữu của con ngườihiện tượng vũ trụ là những điều mà chúng ta đã vướng vào. Những pháp thoại của Ngài dành cho chúng ta ngày càng trở nên rõ ràng như thể không phải 2500 năm cách đây. Những lời nói đó, không chỉ xuyên qua sự duy trì giáo lý qua các quốc gia, nhưng còn băng qua những sự khám phá của khoa học hiện đại. Những giáo lý như chúng ta biết, có thể chứa đựng một vài điều thêm thắt của những người giải thích sau này, nhưng những chân lý cốt lõiĐức Phật dạy là khả năng của mỗi người để giúp chúng ta nhận ra manh mối đời sống-điều mà các tư tưởng gia hiện đại tránh nó. Khi chúng ta có thêm sự khám phá với những học thuyết Phật giáo, chúng ta thấy được rằng hệ thống xây dựng một mô hình hết sức hoàn hảo, đến nay, những tư tưởnglý trí thì có khả năng đánh giá nó. Phần còn lại mà chúng ta phải tìm cho chính chúng ta ở trên những bề mặt cao hơn của Phật giáo Thiền.

     Hiện tại có thể nó có vẻ như người ta chỉ tìm kiếm những bí mật của vũ trụ để tiêu diệt chính họ với sức mạnh mà họ đã đạt được; và chỉ có một sự nguy hiểm nhất định nào đó. Nhưng tôi tin rằng một sự thay đổi trong quan điểm đang bắt đầu và cuốn hút, và chính khoa học đang bị sự tàn phá căn bản với nhiều tư duy sai lầm đó đang kéo chúng ta gần hơn với hiện thực của chân lý đã được công bố bởi Đấng Giác ngộ. Đó là những gì mà tôi định nghĩa “phương pháp khoa học đối với Phật giáo” không ngoài việc thấy rõ về nó.Nhà Khoa học và Triết học hiện đại đang được đẩy tới một cách không thể cưỡng lại trong phương pháp Phật giáo. Tính lưỡng lự và nghi ngờ của họ khiến tăng trưởng thêm những nỗi đau tinh thần, nhưng thời gian sẽ đến, và chúng ta hãy cầu nguyện rằng nó sẽ đến nhanh khi họ thấy rằng, mặc dù họ đã loại ra mọi thứ trên niềm tin luân lýtôn giáo bình thường mà họ đã thấy được, có một Tôn giáo cao hơn-dựa trên sự nghiên cứuhệ thốngtrung thực đối với chân lý, sẽ khôi phục niềm tin của họ bị đánh mất trong nguyên lý công bằng của vũ trụ, chân lýtình thương. Bây giờ họ tin tưởng rằng con người đã đạt được sự kết thúc quan niệm trói buộc chính mình, do vậy họ lãnh hội được sự khai sáng những triển vọng vào tương lai, điều duy nhất mà họ hoài nghi mập mờ, và sẽ nhận ra rằng, vượt qua tất cả, MỤC ĐÍCH cuối cùng của cuộc cách mạng hoàn toàn từ sự giam cầm của vô minhẢo Tưởng.






1 người đang xem chủ đề

0 thành viên, 1 khách, 0 thành viên ẩn danh