Đến nội dung

Hình ảnh

Alexander Grothendieck

- - - - -

  • Please log in to reply
Chủ đề này có 13 trả lời

#1
Polytopie

Polytopie

    Trung sĩ

  • Thành viên
  • 151 Bài viết
Alexander Grothendieck đã 35 năm rời bỏ IHES và giới tóan học nói chung. Nhưng như người ta vẫn gọi ông là "The Genius of Bues-sur-Yvette" (nên nhớ là IHES đã là nơi nghiên cứu hoặc đang là nơi nghiên cứu một lọat các trùm tóan khác như Alain Connes, Kontsevich, Gromov, Deligne,..), Grothendieck đã và vẫn là một nhân vật có ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển của tóan học trong nửa sau thế kỷ 20. Mặc dù đã sớm kết thúc sự nghiệp tóan học của mình vào năm 1970 ở tuổi 42 do bất đồng quan điểm với người sáng lập ra IHES về việc nhận tiền tài trợ của bộ quốc phòng Pháp để duy trì IHES, nhưng tinh thần và chương trình mà Grothendieck đưa ra cho tóan học vẫn còn tồn tại xuyên suốt thời gian qua. Cụ thể nhất và gần đây nhất là Motivic Cohomology của Voevodsky- người đựơc Fields cho công trình này năm 2002.

Cuộc đời của A. Grothendieck là cuộc đời của một người gặp nhiều bất hạnh lúc nhỏ, rất có thể vì thế, ông mang trong người nhiều sự đau đớn và nhiều trăn trở với nhân lọai. Ông không phải là một nhà họat động chính trị có tài, không phải là một người có khả năng thay đổi thế giới thực, nhưng đã luôn là một người vì lý tưởng của mình, sẵn sàng rời bỏ mọi thứ, bất chấp mọi rào cản để cố gắng thực hiện đựơc niềm tin của mình. Không phải ai trong giới khoa học cũng có đựơc một tinh thần, một tình yêu hòa bình, yêu nhân lọai như vậy (2).

Theo như một vài người còn đựợc gặp Grothendieck ở nơi ông tu ẩn từ suốt 15 năm nay- một vùng núi hẻo lánh ở miền Bắc nước Pháp, thì ông đã trở nên mất trí, với những tưởng tượng như: "hôm qua tôi nhìn thấy quỉ sứ, bay với tốc độ 299999999 km/s". Nhưng hiện nay, hàng ngày, trường đại học Montpelier- nơi ông dạy học những năm hậu IHES (1973-1988) vẫn nhận đựơc một đống thư từ gửi đến địa chỉ email của ông, và số người xếp hàng để được có cơ hội gặp ông ở nơi ông tu ẩn vẫn rất lớn. Tuy nhiên chỉ có vài người là còn đựơc phép gặp Grothendieck.

Vậy Grothendieck đã làm gì để nhận đựơc một sự sùng bái to lớn đến thế?
Ông cách mạng hình học đại số, và hầu hết các khái niệm nền tảng mới của hình học đại số hiện đại là của ông, và vì hầu như tất cả do ông nghĩ ra, người ta không gọi kèm tên ông với chúng nữa :D. Chỉ những gì mà là ý tưởng của ông nhưng người khác phát triển, thì người ta mới dùng tên ông để gọi. Cả thế giới nghiên cứu hình học đại số thời đó có thể gọi là học trò của ông (tất cả các trung tâm hình học đại số của Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Nga, Nhật). Kể cả những người không thích như thế cũng phải đi theo con đường của ông và ông như người thầy giáo giao bài tập cho từng nhân vật một nghiên cứu hình học đại số trên khắp thế giới.
Vậy hình học đại số là cái gì trong tóan học mà ý nghĩa của nó to lớn như thế?
Nó là một phát triển cao hơn của đại số- ngành toán xương sống cho hầu như mọi ngành tóan khác. Các viện nghiên cứu lớn trên thế giới hiện nay như IAS Princeton, Harvard, Berkeley, IHES, các viện ở Nga .v.v. cũng có thành phần nền tảng là nghiên cứu hình học đại số.
(về ngành này mình hòan tòan không biết, chỉ nghe nói vậy, biết vậy)

Vậy cái gì là đặc biệt ở Grothendieck?
Khả năng tổng hợp hóa, khả năng trừu tượng hóa của trừu tượng hóa có một không hai của ông! Grothendieck không phải là một "nhà chứng minh" như Paul Erdos hay John Nash. Ông chưa từng thi olimpic tóan :bigcap:limits_{i=1}^{n} (tất nhiên thời đó chưa có!), và như ông nói sau này, thì ông "không bao giờ nghĩ rằng ông có thể sẽ được giải olimpic tóan nếu đi thi, chứ đừng nói gì được giải tới 3 lần như một vài người khác". Grothendieck ghét tất cả mọi mẹo, thuật giải tóan lặt vặt, và cho dù các thủ thuật ấy có tác dụng lớn đến đâu- (như việc nhờ nó, Deligne- học trò giỏi nhất của ông, đã chứng minh được giả thuyết Weil thứ 3- giả thuyết mà Grothendieck dùng tất cả sức lực và tâm huyết xây dựng mọi lý thuyết hình học đại số xoay quanh nó, để xây dựng nó và chứng minh nó) Grothendieck cũng không thèm quan tâm đến chứng minh ấy. Có những công trình, nhờ những mẹo nhỏ dẫn tới kết quả, Grothendieck cũng bỏ không công bố, mà đưa cho người khác công bố- ví dụ trường hợp một lý thuyết mang tên Borel- Serre.

Có thể lấy vài ví dụ để chứng minh khả năng tổng quát hóa đặc biệt của ông. Sau khi nghe tin Hirzebruch chứng minh được lý thuyết Riemann-Roch cho các nghiệm chiếu nonsingulare (projective nonsingulare variety) năm 1954, khi cả giới tóan học vui mừng, thì Grothendieck lại một mình đi chứng minh lại nó cho một hiện tượng khác trong tóan, tổng quát hơn. Ông nói với Serre: "không, lý thuyết Riemann- Roch không phải là lý thuyết cho các nghiệm, mà nó là lý thuyết dành cho các Morphirms giữa các hệ nghiệm ấy! :)" Rồi ông đưa ra các định nghĩa mới như Topos: không gian của không gian, Schemata: hệ nghiệm của hệ nghiệm. Khả năng trừu tượng và tổng quát hóa ấy chỉ có ở Grothendieck!

Trong bài viết dưới đây, câu kết cuối cùng của người viết là: Alexander Grothendieck là Albert Einstein của tóan học thế kỷ 20. Câu này có lẽ là câu dễ hiểu hơn cả đối với tất cả chúng ta.

Đối với riêng Việt Nam: Grothendieck đã trực tiếp dẫn một đòan các nhà tóan học
Pháp sang làm việc ở VN 3 tuần vào năm 1967, 1968- trực tiếp giảng tóan cho giáo sư, sinh viên tóan ở đại học tổng hợp Hà Nội, bất chấp bom đạn và máy bay Mỹ.

Đấy là giới thiệu sơ qua về Grothendieck cho các bạn không muốn đọc tiếng Anh. Còn với các bạn đọc đựơc tiếng Anh, xin mời đọc 2 phần bài viết về Grothendieck của AMS dưới đây.

--------

(1)- Bures- sur- Yvette là địa chỉ của viện IHES nổi tiếng ở Paris.
(2)- nếu nhìn ngược lại hội chế tạo bom nguyên tử của Mỹ hồi thế chiến thứ 2- gồm Oppenheimer, John von Neumann, Freymann .v.v. Hội này sau khi nghe tin 2 quả bom ném xuống Hirosima và Nagasaki đã giết chết mấy chục ngàn người và phá hủy 2 thành phố này hòan tòan, đã tổ chức ăn mừng. Khi phóng viên hỏi họ tại sao ăn mừng, Freymann đã phát biểu rằng:" việc người ta dùng bom làm gì không liên quan đến chúng tôi, chúng tôi là những người làm khoa học, và chúng tôi làm vì chúng tôi muốn làm khoa học, chúng tôi muốn thành công" .v.v. ;)

Bài viết đã được chỉnh sửa nội dung bởi Polytopie: 04-03-2005 - 05:00

Tôi tư duy nên Tôi không tồn tại.

#2
Polytopie

Polytopie

    Trung sĩ

  • Thành viên
  • 151 Bài viết
Part 1


Part 2
Tôi tư duy nên Tôi không tồn tại.

#3
RongChoi

RongChoi

    Thượng sĩ

  • Founder
  • 215 Bài viết
Hay da^'y. Lam sao Polytopie la^'y d-u+.o+c ba`i tu+` Notices of the AMS the^'?

#4
Polytopie

Polytopie

    Trung sĩ

  • Thành viên
  • 151 Bài viết
Đăng ký account miễn phí :P
Tôi tư duy nên Tôi không tồn tại.

#5
RongChoi

RongChoi

    Thượng sĩ

  • Founder
  • 215 Bài viết
Hay nhi, free that. Vua vao lay bai "A 1940 Letter of André Weil on Analogy in Mathematics" co ve thu vi phet.
Thanks

#6
TieuSonTrangSi

TieuSonTrangSi

    Thiếu úy

  • Founder
  • 526 Bài viết
Bài của Polytopie hay quá :clap: Trên mạng có rất nhiều trang nói về cuộc đời, sự nghiệp của Grothendieck, tôi xin giới thiệu trang này cho những bạn nào biết đọc tiếng... Pháp.

http://les-mathemati...?id_article=112

Hình đã gửi

Cũng xin bình luận, bổ túc vài điều lặt vặt tôi ghi nhớ về Grothendieck :

Grothendieck không phải là một "nhà chứng minh" như Paul Erdos hay John Nash

Người ta thường nói đùa là có hai loại nhà toán học (2 kinds of mathematicians) : the "problem solvers" (người giải bài) and the "theory builders" (người dựng thuyết). Phải chi mình là một trong hai thứ này thì cũng mãn nguyện rồi :P

Ông chưa từng thi olimpic tóan, và như ông nói sau này, thì ông "không bao giờ nghĩ rằng ông có thể sẽ được giải olimpic tóan nếu đi thi, chứ đừng nói gì được giải tới 3 lần như một vài người khác"

Grothendieck sanh năm 1928, còn kỳ Olympic toán quốc tế lần đầu được tổ chức năm 1959 (năm đó ông 31 tuổi !). Chắc là ông ta nói về những cuộc thi giỏi toán nói chung.

Việc học của ông bị gián đoạn vào thời thiếu niên (vì chiến tranh : ông qua Pháp năm 1939, từ 1939 đến 1945 không được đi học). Khi ông từ Montpellier lên Paris (1948) theo học lớp seminar của Cartan với các "tay to mặt bự" khác thì ông phải rất cố gắng, vì hơi "thiếu trình độ" :cry Cartan khuyên ông nên đi làm luận án với Laurent Schwartz tại tỉnh Nancy, vì không khí ở đó nhàn, ít "căng thẳng" hơn Paris.

Cuộc đời của A. Grothendieck là cuộc đời của một người gặp nhiều bất hạnh lúc nhỏ, rất có thể vì thế, ông mang trong người nhiều sự đau đớn và nhiều trăn trở với nhân lọai

Cha mẹ ông người Nga-Do Thái, chạy từ Nga qua Đức, rồi từ Đức qua Pháp. Bên Pháp, cha ông bị chính quyền tay sai của Đức bắt (vì là Do Thái), đày vào trại tập trung Auschwitz, rồi chết tại đó.

Alexander Grothendieck đã 35 năm rời bỏ IHES và giới tóan học nói chung

Sau khi từ chức tại IHES, ông được J.P. Serre mời vào làm giảng sư tại Collège de France trong vòng 2 năm. Vì là kẻ "dấn thân chính trị" nên Grothendieck không ngại ngùng dùng một phần giờ dạy để tuyên truyền, quảng bá cho sinh viên lý tưởng của ông : bảo vệ thiên nhiên (ecology) và chủ nghĩa hòa bình (pacifism). Chính vì vậy mà sau 2 năm, người ta không mời ông ở lại !

Sau một thời gian, ông trở về Montpellier, và chỉ đi dạy, không nghiên cứu toán nữa. Vào những năm 80 thì ông cũng có thử "come-back", nhưng không thành công. Đến năm 1988 thì ông đi "tu" !
Chí lớn trong thiên hạ không đựng đầy đôi mắt của giai nhân

#7
ngocson52

ngocson52

    Kẻ độc hành

  • Founder
  • 859 Bài viết
Nếu tớ nhớ không nhầm thì bài mà Poly đưa về Grothendieck trước đây bác canh_dieu đã giới thiệu trên forum, nhưng không hiểu tại sao khi phân chia lại cái box Lịch sử toán học thì nó lại biến đâu mất.
Tớ rất ủng hộ cách làm của bác Poly, đó là viết lời giới thiệu trước khi đưa bài lên (rất giống với cách của tớ :leq :P :D). Đối với một bài viết bằng tiếng Anh thì điều này lại càng cần thiết vì ít ra nó sẽ quyết định đến việc người xem có quyết định bỏ công sức ra đọc hay không. :leq
Sống trong đời sống cần có một túi tiền.
Để làm gì em biết không?
Để gái nó theo, để gái nó theo... :D

#8
BadMan

BadMan

    Người quản trị

  • Founder
  • 1369 Bài viết

Nếu tớ nhớ không nhầm thì bài mà Poly đưa về Grothendieck trước đây bác canh_dieu đã giới thiệu trên forum, nhưng không hiểu tại sao khi phân chia lại cái box Lịch sử toán học thì nó lại biến đâu mất.

Không phải do phân chia box nên bài của bác Canh dieu biến đâu mất mà tại bác ấy "lấy lại" (không cho diễn đàn nữa) :P
Cơm, áo, gạo, tiền
Bút, nghiên, sách, vở

#9
Polytopie

Polytopie

    Trung sĩ

  • Thành viên
  • 151 Bài viết
Các thông tin mà bác Tieusontrangsi nói đến đều có ở trong bài của AMS trên. Nói chung còn rất nhiều chuyện hay về Grothendieck thông qua các nhân chứng như Serre, Mumford, Tate, Deligne, và các học trò khác của ông trong bài trên.
--------------------


Có thêm một điểm đặc biệt ở Grothendieck mà có thể sẽ giúp đựơc cho nhiều người trong chúng ta tham gia diễn đàn này: Grothendieck có kiến thức không đầy đủ về tóan học, nói như chúng ta thì ông bị "hổng" kiến thức cơ bản. Có lần tham gia phỏng vấn, một người hỏi ông lấy ví dụ về một lĩnh vực ông làm và xin ông lấy ví dụ cho một số "prime number" (số nguyên tố). Grothendieck hỏi lại: "có phải ông muốn nói đến một số "actual number" không? Một người khác ngồi đó nhắc khéo: "vâng, một số actual prime number". Grothendieck liền bảo: "vậy chúng ta lấy thử số 57" :P (57 chia hết cho 3 nên không phải là số nguyên tố!).

Grothendieck đọc rất ít sách. Hồi IHES mới mở- kinh phí quá ít để lập được một thư viện sách đàng hòang. Mấy nhà nghiên cứu ở Mỹ sang tham gia hội thảo, nghiên cứu với Grothendieck phàn nàn về việc thiếu sách tra cứu. Grothendieck trả lời ngắn gọn: "chúng tôi không đọc sách, chúng tôi viết sách!"

Hồi Grothendieck còn học đại học ở Montpelier- trừơng đại học hồi đó đựơc Serre mô tả là "một trong những nơi lạc hậu nhất về tóan học ở Pháp", vì chán kiến thức của giáo sư quá mà Grothendieck dùng 3 năm học chỉ để tự mình xây dựng lại vài lý thuyết cơ bản của hình học để đến lúc hiểu chúng tường tận, chứ hầu như không tham gia học gì ở trên lớp. Cứ như thế ông xây dựng ra "tích phân Lebesque" và một vài thứ khác mà không hề biết các lý thuyết này đã tồn tại rồi :D Về sau cũng vậy- kiến thức đại số, hình học đại số và nhiều thứ khác của ông là do những lần nói chuyện, tranh luận với các nhà tóan học khác mà có, chứ không phải do sách vở trường lớp nào cả. Grothendieck không biết nhiều, mà cũng không quan tâm đến các lý thuyết hình học đại số trước đó. Ông tự xây dựng một hình ảnh mới cho nó, dựa trên những khái niệm, lý thuyết mới mà ông cho rằng hợp lý đối với hình học đại số.

Và, điều quan trọng hơn cả: Grothendieck "worked very hard". Thời còn là nghiên cứu sinh của Schwartz, Grothendieck có một bạn học người Brazil. Có lần Schwartz đã nói với học trò người Brazil đó là: "cậu là một thanh niên tốt, có khả năng cân bằng nhiều mặt. Cậu hãy lôi anh bạn Grothendieck đi chơi cùng cậu, tham gia những thú vui khác chứ anh ta làm việc nhiều quá."

Thời gian ở IHES, trong 12 năm Grothendieck viết tổng cộng khỏang 25.000 trang giấy về hình học đại số. Số lượng này tương đương khỏang 100 quyển sách. Ông làm việc 12 tiếng một ngày, 7 ngày một tùân, không thay đổi.
Tôi tư duy nên Tôi không tồn tại.

#10
ngocson52

ngocson52

    Kẻ độc hành

  • Founder
  • 859 Bài viết
A.Grothendieck, người chứng minh ìđịnh lý”:
ìTồn tại nền toán học việt nam” (1)

HÀ HUY KHOÁI

Sau khi từ Việt Nam trở về tháng 11 năm 1967, Grothendieck đã viết một bài về chuyền đi của mình, kết thúc bằng câu: ìTôi đã chứng minh một trong những định lý quan trọng nhất của mình, đó là: Tồn tại một nền toán học Việt Nam”. Bài viết đó nhanh chóng trở thành nổi tiếng trong giới toán học, bởi vì bất cứ điều gì Grothendieck viết ra đều là điều mà mọi người làm toán quan tâm.
Phải nói rằng, không phải Grothendieck chỉ ìchứng minh” sự tồn tại nền toán học Việt Nam, mà chính ông đã góp phần vào ìsự tồn tại” đó. Tôi hiểu điều này một cách rõ ràng khi, rất nhiều năm sau chuyến đi của Grothendieck, nhiều đồng nghiệp nước ngoài nói với tôi rằng, họ biết đến nền toán học Việt Nam từ sau khi đọc bài viết của Grothendieck. Và cũng nhiều lần, tôi phải kể lại tường tận những gì tôi đã được chứng kiến, những gì Grothendieck đã làm trong chuyến đi thăm Việt Nam.
Hình đã gửi

Bản thân sự kiện Grothendieck đến Việt Nam đã là điều đáng ngạc nhiên. Ông, người được trao giải thưởng Fields (là giải thưởng cao nhất về toán, tương tự giải Nobel đối với các ngành khoa học khác, được tặng 4 năm một lần cho 1-4 nhà toán học xuất sắc nhất thế giới), người mà bất kỳ một trường đại học lớn nào cũng lấy làm vinh dự khi ông đến thăm, lại đi đến Việt Nam đang dưới bom đạn ác liệt? Nhưng, để có thể hình dung tại sao những điều Grothendieck viết ra lại có ảnh hưởng to lớn như vậy trong thế giới toán học, xin được nói đôi lời về ông.
Ag không phải là một người có một thời thơ ấu êm ả và thuận lợi. Ông sinh năm 1928 ở Đức. Cha ông mất năm 1943 trong trại tập trung Dachau, ông cùng với mẹ chuyển sang sống ở Pháp ngay trong thời kỳ chiến tranh thế giới thứ hai để tránh họa phát xít. Tại Pháp, ông được những người chống phát xít giúp đỡ để có thể đến trường học. Năm 1948, ông đến Paris tìm gặp Henri Cartan, và ít lâu sau đến Nancy làm việc dưới sự hướng dẫn của Jean Dieudonné, một trong những nhà toán học xuất sắc nhất thời bấy giờ. Luận án tiễn sĩ mà Grothendieck viết thời kỳ đó đã nhanh chóng trở thành kinh điển. Trong luận án của mình, Grothendieck xây dựng lý thuyết tích tenxơ các không gian hạch lồi địa phương, một lý thuyết mà đến nay vẫn là nền tảng của giải tích hàm hiện đại. Năm 1958, khi ở Pháp thành lập Insitiut des Hautes Etudes Scientifiques (nổi tiếng trong giới toán học dưới tên gọi IHES). Grothendieck trở thành một trong những giáo sư đầu tiên của Viện.
Có lẽ những năm những năm làm việc ở IHES là những năm rực rỡ nhất của thiên tài Grothendieck. Bằng lý thuyết các ìlược đồ”, ông muốn làm cho hình học, đại số, số học và một số lĩnh vực cơ bản khác của toán học trở thành một khối thống nhất (2). Grothendieck đã làm một cuộc cách mạng thực sự trong toán học. Có thể nói, ông để lại dấu ấn của mình trong mọi lĩnh vực của toán học hiện đại. Người ta có thể nhận ra ảnh hưởng của Grothendieck ngay cả khi không thấy trích dẫn định lý cụ thể nào của ông. Điều này cũng giống như ảnh hưởng của Picasso đến thẩm mĩ của thời đại chúng ta: ta nhận ra Picasso không chỉ qua các bức họa của ông, mà thấy Picasso ngay trong hình dáng của những vật dụng hàng ngày. Grothendieck đã góp phần làm cho IHES thực sự trở thành một trong vài ba trung tâm lớn nhất của toán học thế giới. Chỉ một chi tiết sau đây cũng cho ta thấy rõ điều đó: từ ngày thành lập đến nay, IHES mới có 9 người là ìgiáo sư chính thức” (professeur permanent) thì đã có 6 người đoạt giải Fields, đó là Alexandre Grothendieck, René Thom, Jean Bourgain, Alain Connes, Pierre Deligne, Maxim Kontsevich. Hàng năm, có khoảng 200 lượt người đến làm việc tại IHES (khoảng từ một tuần đến một năm). Bản thân tôi cũng có cái may mắn được làm việc tại IHES một năm, từ tháng 1 đến tháng 12 năm 1988. Lúc đó, Grothendieck đã rời IHES, nhưng cũng như tất cả mọi người, tôi luôn thấy ìtinh thần Grothendieck” thể hiện ở khắp nơi, trong cách thức tiến hành các hoạt động khoa học cũng như trong những vấn đề nghiên cứu của IHES, và cả trong những câu chuyện hàng ngày.
Việc Grothendieck đột ngột rời bỏ IHES, và nói chung, rời bỏ toán học năm 1970, vào thời kỳ thiên tài của ông đang ở đỉnh cao, đã làm xôn xao giới toán học. Cho đến tận bây giờ, người ta vẫn không thật hiểu rõ tại sao. Nhiều người cho rằng ông không đồng ý với việc IHES nhận một số tiền tài trợ của các cơ quan quân sự (vào thời điểm đó, số tiền này vào khoảng 3,5% ngân sách của Viện). Ông là người luôn có những quan điểm riêng của mình, và có thể là như nhiều người quan niệm, ông khá ìngây thơ” về chính trị. Giáo sư Louis Michel kể lại: có một lần, ông cho Grothendieck xem bản thông báo về một hội nghị quốc tế mà Grothendieck được mời làm báo cáo viên chính. Trong phần liệt kê các cơ quan tài trợ có NATO, và Michel hỏi Grothendieck xem có biết NATO là gì không, thì Grothendieck trả lời ìkhông!”. Sau khi được giải thích NATO là gì, Grothendieck đã viết thư cho ban tổ chức hội nghị để phản đối. Và cuối cùng, vì không muốn mất Grothendieck, ban tổ chức đành mất NATO!
Vậy mà con người có vẻ ngây thơ về chính trị, không biết NATO là gì, đã đến thăm và giảng bài tại Việt Nam trong thời gian chiến tranh. Khi ông đến Việt Nam (năm 1967), tôi vừa học xong năm thứ tư Khoa toán Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Tuy đã tốt nghiệp nhưng chưa nhận công tác nên tôi được ìtự do” rời khu sơ tán về Hà Nội và đi nghe các bài giảng của ông. Thường thì Giáo sư Tạ Quan Bửu hoặc Giáo sư Đoàn Quỳnh phiên dịch cho ông. Tôi thật sự kinh ngạc vì sự bình tĩnh của ông: các bài giải của ông thường bị ngắt quãng vì những lần máy bay Mỹ bắn phá thành phố. Vậy mà ông, người đến từ một đất nước đã từ lâu không có chiến tranh, không tỏ ra mảy may lo sợ.
Nhưng rồi thì các bài giảng của ông cũng phải chuyển lên khu sơ tán, vì không thể nào giảng bài khi mà buổi học bị ngắt quãng hàng chục lần vì máy bay. Và ở khu sơ tán, có một hình ảnh về ông mà không bao giờ tôi quên. Đó là có một lần, tôi thấy ông cởi trần ngồi đọc sách, cái áo màu ìphòng không” vắt trên bụi sim. Hỏi ra mới biết, ông giành toàn bộ va li của mình để mang sách vở sang tặng các nhà toán học Việt Nam, và chỉ có một bộ quần áo duy nhất mặc trên người! Vậy nên mỗi lần giặt, ông phải chờ quần áo khô để mặc lại chứ không có quần áo để thay! Trong thời gian ông ở Việt Nam, mỗi tuần ông đều nhịn ăn ngày thứ sáu. Khi các nhà toán học Pháp biết chuyện, họ đều rất ngạc nhiên vì không thấy ông có thói quen đó khi ở Pháp. Và người ta cho rằng chỉ có thể có một cách giải thích: ông muốn tiết kiệm một phần lương thực cho Việt Nam! Đó là một con người với thiên tài kỳ lạ, cá tính kỳ lạ, và có tấm lòng ưu ái với Việt Nam. Theo lời ông nói, chuyến đi Việt Nam đã làm ông thật sự ngạc nhiên: ở một đất nước ngày đêm phải đối đầu với cuộc chiến tranh ác liệt bậc nhất trong lịch sử, người ta vẫn dạy toán, học toán, và biết đến những thành tựu hiện đại nhất của toán học! Từ sự ngạc nhiên đó, ông đã công bố định lý của mình: ìTồn tại một nền toán học Việt Nam”.
ìĐịnh lý” trên đây của Grothendieck đã làm giới toán học quốc tế biết đến nền toán học Việt Nam trong chiến tranh. Chuyến đi của Grothendieck đã mở đầu cho một loạt chuyến đi thăm và giảng bài của nhiều nhà toán học lớn đến Việt Nam, trong đó nhiều nhất vẫn là các nhà toán học Pháp: L. Schwartz, A. Martincau, P. Cartier, Y. Amice, … Có thể nói chuyến đi của Grothendieck là một cột mốc quan trọng trong lịch sử hợp tác khoa học giữa các nhà toán học Việt Nam và các nhà toán học Pháp.
Ngày nay, ở tuổi 71 (đó là năm 1999, giờ ông đã 77 tuổi rồi – ngocson52), Grothendieck sống trong trong một căn nhà nhỏ bên sườn dãy Pyrénées. Ông muốn ẩn dật, muốn xa lánh cuộc đời. Nhưng cuộc đời không bao giờ quên ông. Nền toán học thế giới không bao giờ quên ông. Và chúng ta cũng không bao giờ quên ông, người đã dùng tiếng tăm và ảnh hưởng của mình làm cho thế giới biết đến nền toán học Việt Nam ngay từ những năm chiến tranh chống Mỹ.

(Nguồn: Tạp chí Tia Sáng 7.1999)
-----------------------------------------------------------------
(1) Về A.Grothendieck, các bạn hãy xem thêm tiểu sử ông tại đây (bài của bác Polytopie): http://www.diendanto...?showtopic=2017
(2) Xem thêm bài "Ngôn ngữ phổ quát của các con số" ở đây: http://www.diendanto...p?showtopic=521
Sống trong đời sống cần có một túi tiền.
Để làm gì em biết không?
Để gái nó theo, để gái nó theo... :D

#11
Doraemon

Doraemon

    Mèo Ú

  • Hiệp sỹ
  • 239 Bài viết
Alexander Grothendieck.


Grothendieck sinh ngày 28 tháng 3 năm 1928 tại Berlin, Đức. Cha ông mất sớm. Sau đó ông sang Pháp năm 1941 và học đại học tại trường Đại học Montpellier. Sau khi tốt nghiệp trường Montpellier, ông tiếp tục học lên trường Sư phạm cao cấp (École Normale Supérieure) tại Paris.

Năm 1949, Grothendieck chuyển đến trường Đại học Nancy và làm việc trong lĩnh vực Giải tích hàm với sự hướng dẫn của Dieudonné. Ông trở thành một thành viên của nhóm Bourbaki, gồm có Weil, Henri Cartan và Jean Dieudonné. Ông bảo vệ luận án Tiến sĩ với đề tài ìTích tenxơ tô pô của các không gian hạch”.

Từ 1953 đến 1955, Grothendieck đến làm việc tại trường Đại học Sao Paulo và những năm sau đó là tại trường Đại học Kansas. Đó chính là thời kỳ thay đổi trong công việc nghiên cứu của ông, ông bắt đầu quan tâm đến tô pôhình học.
Thật ra, trong suốt thời kì đó, Grothendieck đã được hỗ trợ bởi Trung tâm Nghiên cứu khoa học Quốc tế, kể từ 1950. Vì vậy, năm 1956, sau khi rời khỏi Kansas, ông trở lại Trung tâm nghiên cứu khoa học Quốc tế. Tuy nhiên, năm 1959, ông được mời làm chủ tịch ở một viện nghiên cứu mới gọi là Institut des Hautes Etudes Scientifiques, chính là Viện IHES nổi tiếng sau này. Quyển sách [2] đã miêu tả thời kì này của Grothendieck như sau:
ìKhông quá phóng đại khi nói những năm 1959-1970 tại IHES là ‘Những kỷ nguyên Vàng’ của Grothendieck, suốt những năm đó, những lớp mới về Toán học đã hoạt động dưới sự lãnh đạo của ông. Seminar của Grothendieck về Hình học đại số được thiết lập tại IHES như là một Trung tâm hình học đại số của thế giới mà ông là người dẫn dắt. Ông được nhận giải thưởng Fields năm 1966. Nhìn lại thời kì này, ta lấy làm lạ là với sự hào phóng của mình, Grothendieck đã chia sẻ những ý tưởng của mình với các nghiên cứu sinh và sinh viên, vì thế sự nhiệt thành của ông và những cộng sự đã dành hết cho những bài viết Toán học thật kĩ càng tỉ mỉ. Sự sôi nổi ấy dành cho việc khám phá ra cả một vùng đất mới của Toán học.”

Trong suốt thời kì này, các công trình của Grothendieck đưa đến sự hợp nhất các lĩnh vực hình học, lý thuyết số, tô pôgiải tích phức. Ông đưa ra lý thuyết về các lược đồ trong hình học đại số trong những năm 60 và điều này cho phép tấn công các giả thuyết về lý thuyết số của Weil và cuối cùng các giả thuyết ấy đã được giải quyết. Ông còn làm việc trong lĩnh vực toán logic. Ngoài ra ông còn đưa ra chứng minh đại số cho Định lý Riemann-Roch. Ông đã đưa vào định nghĩa đại số cho nhóm cơ bản của một đường cong. Điều này được nói đến trong [2] như sau:
ìMột liệt kê nho nhỏ về sự đóng góp được biết đến nhiều nhất của Grothendieck đó là: Tích tenxơ tô pô và các không gian hạch, đối đồng điều của bó như một hàm tử, K-lý thuyết và Định lý Grothendieck-Riemann-Roch, điểm nhấn trong các công trình cơ bản là sự định nghĩa và xây dựng các vật thể hình học theo các hàm tử mà chúng biểu diễn trong phạm trù các thớ; về phương diện tô pô và topoi, xác định các phạm trù, hình thức hóa địa phương và toàn cục; nghiên cứu đối đồng điều étale, đối đồng điều của L-hàm, đối đồng điều crystalline, ‘giả thuyết tiêu chuẩn’, các môtip, phạm trù tenxơ và các nhóm Galois motivic. Thật khó mà tưởng tượng rằng tất cả chúng đều chứa trong một cái đầu”.

Grothendieck luôn có một tinh thần quốc tế mạnh mẽ, chống lại sự tham dự của quân đội vào khoa học trong những năm 60. Dường như đó chính là nguyên nhân khiến ông rời bỏ vị trí lãnh đạo IHES vào năm 1970. Ông đã rời bỏ toán học, lĩnh vực mà ông dành hết nhiệt tâm. Thế nhưng vào khoảng năm 1970-72, ông vẫn giữ mối liên lạc như một giáo sư thỉnh giảng tại trường cao đẳng Pháp, hay tại Orsay năm 1972-73. Năm 1973, ông chấp nhận sự liên lạc trên danh nghĩa của một giáo sư tại trường Đại học Montpellier.

Trái ngược với giải thưởng Fields năm 1966, ông từ chối nhận giải Crafoord vào năm 1988, khi ông tròn 60 tuổi. Quyển sách [2] được xuất bản kỷ niệm sinh nhật lần 60 của Grothendieck.
Tham khảo:
1. Biography in Encyclopaedia Britannica.
Books:
2. P Cartier, L Illusie, N M Katz, G Laumon, Y Manin and K A Ribet (eds.), The Grothendieck Festschrift (Boston-Basel, 1990).
Articles:
3. J Dieudonné, A Grothendieck's early work (1950-1960), K-Theory 3 (4) (1989), 299-306.
4. J-P Serre, Rapport au comité Fields sur les travaux de A Grothendieck, K-Theory 3 (3) (1989), 199-204
(Theo J.Connor và E.Robertson)

Trên đây chỉ là sơ lược tiểu sử. Còn nhiều thiếu sót, mong các bạn bổ sung để hoàn thiện hơn.
Có thể tham khảo:
- http://diendantoanho...?showtopic=2017 bài viết của Politopie và bài viết cũ AMS notice của canh_dieu.

Hình gửi kèm

  • Grothendieck.jpg

Thân lừa ưa cử tạ ! :)

#12
Crystal

Crystal

    ANGRY BIRDS

  • Hiệp sỹ
  • 5534 Bài viết
Alexander Grothendieck (sinh ngày 28 tháng 3, 1928 ở Berlin, Đức; đôi khi viết theo tiếng Pháp là Alexandre Grothendieck) là một trong những nhà toán học có ảnh hưởng lớn nhất trong thế kỷ 20. Ông đóng góp chính cho sự phát triển cách mạng của lĩnh vực hình học đại số, cũng như đóng góp lớn cho lý thuyết số, lý thuyết phạm trù và đại số đồng điều, ngoài ra còn là những thành tựu ban đầu của ông trong giải tích hàm. Ông được trao huy chương Fields năm 1966. Năm 1988 ông cùng với Pierre Deligne được trao Giải Crafoord, nhưng Grothendieck đã từ chối nhận giải.

Grothendieck là một nhà toán học nổi bật với cách tiếp cận trừu tượng trong toán học và chủ nghĩa hoàn hảo của ông trong các công thức và biểu diễn. Quả thực là sự tăng lên về sự trừu tượng và hình thức hóa trong toán học thuần túy trong thế kỷ 20 là một phần trong sự ảnh hưởng của ông. Tương đối ít các nghiên cứu của ông được công bố sau năm 1960 trên các tạp chí hàn lâm, và thường lưu hành dưới dạng các bài viết trong các hội thảo; sự ảnh hưởng của ông không chỉ trong toán học mà còn mở rộng đến cá nhân của các nhà toán học, như ảnh hưởng đến các nhà toán học Pháp và trường phái Zariski ở đại học Harvard. Ông nghỉ hưu năm 1988 và trong một vài năm ông ở ẩn.
Tuổi thơ và thời đi học


Hình đã gửi




Cha của Grothendieck, Alexander Shapiro, là một người Do Thái sống ở Ukraine. Ông là người vô chính phủ và tham gia nhiều cuộc nổi loạn chống Sa hoàng, đã từng bị bắt nhiều lần và kết án tử hình nhưng trốn được. Năm 1921, ông đổi tên thành Alexander Tanaroff và rời khỏi nước Nga. Ông gặp Johanna (Hanka) Grothendieck, một phụ nữ xuất thân trung lưu, và nhà toán học ra đời vào năm 1928.


Alexander Grothendieck đã 35 năm rời bỏ IHES và giới tóan học nói chung. Nhưng như người ta vẫn gọi ông là “The Genius of Bues-sur-Yvette” (nên nhớ là IHES đã là nơi nghiên cứu hoặc đang là nơi nghiên cứu một lọat các trùm tóan khác như Alain Connes, Kontsevich, Gromov, Deligne,..), Grothendieck đã và vẫn là một nhân vật có ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển của tóan học trong nửa sau thế kỷ 20. Mặc dù đã sớm kết thúc sự nghiệp tóan học của mình vào năm 1970 ở tuổi 42 do bất đồng quan điểm với người sáng lập ra IHES về việc nhận tiền tài trợ của bộ quốc phòng Pháp để duy trì IHES, nhưng tinh thần và chương trình mà Grothendieck đưa ra cho tóan học vẫn còn tồn tại xuyên suốt thời gian qua. Cụ thể nhất và gần đây nhất là Motivic Cohomology của Voevodsky- người đựơc Fields cho công trình này năm 2002.

Cuộc đời của A. Grothendieck là cuộc đời của một người gặp nhiều bất hạnh lúc nhỏ, rất có thể vì thế, ông mang trong người nhiều sự đau đớn và nhiều trăn trở với nhân lọai. Ông không phải là một nhà họat động chính trị có tài, không phải là một người có khả năng thay đổi thế giới thực, nhưng đã luôn là một người vì lý tưởng của mình, sẵn sàng rời bỏ mọi thứ, bất chấp mọi rào cản để cố gắng thực hiện đựơc niềm tin của mình. Không phải ai trong giới khoa học cũng có đựơc một tinh thần, một tình yêu hòa bình, yêu nhân lọai như vậy.

Theo như một vài người còn đựợc gặp Grothendieck ở nơi ông tu ẩn từ suốt 15 năm nay- một vùng núi hẻo lánh ở miền Bắc nước Pháp, thì ông đã trở nên mất trí, với những tưởng tượng như: “hôm qua tôi nhìn thấy quỉ sứ, bay với tốc độ 299999999 km/s”. Nhưng hiện nay, hàng ngày, trường đại học Montpelier- nơi ông dạy học những năm hậu IHES (1973-1988) vẫn nhận đựơc một đống thư từ gửi đến địa chỉ email của ông, và số người xếp hàng để được có cơ hội gặp ông ở nơi ông tu ẩn vẫn rất lớn. Tuy nhiên chỉ có vài người là còn đựơc phép gặp Grothendieck.

Vậy Grothendieck đã làm gì để nhận đựơc một sự sùng bái to lớn đến thế?

Ông cách mạng hình học đại số, và hầu hết các khái niệm nền tảng mới của hình học đại số hiện đại là của ông, và vì hầu như tất cả do ông nghĩ ra, người ta không gọi kèm tên ông với chúng nữa. Chỉ những gì mà là ý tưởng của ông nhưng người khác phát triển, thì người ta mới dùng tên ông để gọi. Cả thế giới nghiên cứu hình học đại số thời đó có thể gọi là học trò của ông (tất cả các trung tâm hình học đại số của Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Nga, Nhật). Kể cả những người không thích như thế cũng phải đi theo con đường của ông và ông như người thầy giáo giao bài tập cho từng nhân vật một nghiên cứu hình học đại số trên khắp thế giới

Vậy hình học đại số là cái gì trong tóan học mà ý nghĩa của nó to lớn như thế?

Nó là một phát triển cao hơn của đại số- ngành toán xương sống cho hầu như mọi ngành tóan khác. Các viện nghiên cứu lớn trên thế giới hiện nay như IAS Princeton, Harvard, Berkeley, IHES, các viện ở Nga .v.v. cũng có thành phần nền tảng là nghiên cứu hình học đại số.

Vậy cái gì là đặc biệt ở Grothendieck?

Khả năng tổng hợp hóa, khả năng trừu tượng hóa của trừu tượng hóa có một không hai của ông! Grothendieck không phải là một “nhà chứng minh” như Paul Erdos hay John Nash. Ông chưa từng thi olimpic tóan :bigcap:limits_{i=1}^{n} (tất nhiên thời đó chưa có!), và như ông nói sau này, thì ông “không bao giờ nghĩ rằng ông có thể sẽ được giải olimpic tóan nếu đi thi, chứ đừng nói gì được giải tới 3 lần như một vài người khác”. Grothendieck ghét tất cả mọi mẹo, thuật giải tóan lặt vặt, và cho dù các thủ thuật ấy có tác dụng lớn đến đâu- (như việc nhờ nó, Deligne- học trò giỏi nhất của ông, đã chứng minh được giả thuyết Weil thứ 3- giả thuyết mà Grothendieck dùng tất cả sức lực và tâm huyết xây dựng mọi lý thuyết hình học đại số xoay quanh nó, để xây dựng nó và chứng minh nó) Grothendieck cũng không thèm quan tâm đến chứng minh ấy. Có những công trình, nhờ những mẹo nhỏ dẫn tới kết quả, Grothendieck cũng bỏ không công bố, mà đưa cho người khác công bố- ví dụ trường hợp một lý thuyết mang tên Borel- Serre.

Có thể lấy vài ví dụ để chứng minh khả năng tổng quát hóa đặc biệt của ông. Sau khi nghe tin Hirzebruch chứng minh được lý thuyết Riemann-Roch cho các nghiệm chiếu nonsingulare (projective nonsingulare variety) năm 1954, khi cả giới tóan học vui mừng, thì Grothendieck lại một mình đi chứng minh lại nó cho một hiện tượng khác trong tóan, tổng quát hơn. Ông nói với Serre: “không, lý thuyết Riemann- Roch không phải là lý thuyết cho các nghiệm, mà nó là lý thuyết dành cho các Morphirms giữa các hệ nghiệm ấy! ” Rồi ông đưa ra các định nghĩa mới như Topos: không gian của không gian, Schemata: hệ nghiệm của hệ nghiệm. Khả năng trừu tượng và tổng quát hóa ấy chỉ có ở Grothendieck!


Trong bài viết dưới đây, câu kết cuối cùng của người viết là: Alexander Grothendieck là Albert Einstein của tóan học thế kỷ 20. Câu này có lẽ là câu dễ hiểu hơn cả đối với tất cả chúng ta.

Đối với riêng Việt Nam: Grothendieck đã trực tiếp dẫn một đòan các nhà tóan học Pháp sang làm việc ở VN 3 tuần vào năm 1967, 1968- trực tiếp giảng tóan cho giáo sư, sinh viên tóan ở đại học tổng hợp Hà Nội, bất chấp bom đạn và máy bay Mỹ.


#13
Zaraki

Zaraki

    PQT

  • Phó Quản lý Toán Cao cấp
  • 4273 Bài viết
 Đó  là một trong những “Định lí tồn tại” nổi tiếng nhất của một trong những nhà toán học nổi tiếng nhất của thế kỉ XX: Alexandre Grothendieck. Ông đã chứng minh “định lí tồn tại” nổi tiếng của mình không phải theo cách thường dùng để chứng minh các “định lí Grothendieck” nổi tiếng khác. Lần này, thế giới toán học được biết đến một phương pháp chứng minh mới của Grothendieck: ông chứng minh định lí trên bằng chuyến đi của mình dến miền Bắc Việt Nam trong thời kì ác liệt nhất của cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ. Sau khi từ Việt nam trở về, tháng 11 năm 1967, Grothendieck đã viết một bài về chuyến đi của mình, kết thúc bằng câu :” Tôi đã chứng minh một trong những định lí quan trọng nhất của mình, đó là: Tồn tại một nền toán học Việt Nam”. Bài viết đó nhanh chóng trở thành nổi tiếng trong thế giới toán học, bởi vì bất cứ điều gì mà Grothendieck viết ra đều là điều mà mọi người làm toán quan tâm.  Phải nói rằng, không phải Grothendieck chỉ “chứng minh” sự tồn tại của nền toán học Việt nam, mà chính ông đã góp phần vào “sự tồn tại” đó. Tôi hiểu điều này một cách rõ ràng khi, rất nhiều năm sau chuyến đi của Grothendieck, nhiều đồng nghiệp nước ngoài nói với tôi rằng, họ biết dến nền toán học Việt nam từ sau khi đọc bài viết của Grothendieck. Và cũng nhiều lần, tôi phải kể lại tường tận những gì tôi đã được chứng kiến, những gì Grothendieck đã làm trong chuyến đi thăm Việt nam. Bản thân sự kiện Grothendieck đến Việt Nam đã là điều đáng ngạc nhiên. Ông, người được trao giải thưởng Fields, người mà bất kì một trường đại học lớn nào cũng lấy làm vinh dự khi ông đến thăm, lại đi đến Việt nam đang dưới bom đạn ác liệt? Nhưng, để có thể hình dung tại sao những điều Grothendieck viết ra lại có ảnh hưởng to lớn như vậy trong thế giới toán học, xin được nói đôi lời về ông.

Alexandre Grothendieck là một trong những nhà toán học được nhắc đến nhiều nhất của thế kỷ 20. Dĩ nhiên người ta nhắc đến ông trước hết vì những đóng góp to lớn của ông cho toán học, nhưng cũng vì ông là một con người với thiên tài kì lạ, cá tính kì lạ. Mặc dù ông đã viết hơn 1000 trang hồi ký, người ta vẫn biết rất ít về cuộc sống riêng của ông! Bởi thế, nhiều điều trong tiểu sử của ông vẫn còn là bí ẩn,  đôi khi chỉ là những “truyền thuyết”. Những điều tôi viết sau đây dựa rất nhiều vào những lời kể của một số bạn bè gần gũi của ông.

Alexandre Grothendieck không phải là người có một thời thơ ấu êm ả và thuận lợi. Cha ông họ là Shapiro (không rõ tên là gì), sinh khoảng năm 1890 trong một thị trấn nhỏ thuộc Nga, gần giao điểm của ba nước Nga, Ucraina, Bêlôruxia. Giòng họ Shapiro gồm những người Do Thái rất sùng đạo. Ông Shapiro tham gia vào phong trào cách mạng 1905 ở Nga, sau đó bị đày đi Xibêri hơn 10 năm trời. Ông được trả tự do năm 1917 khi cách mạng Tháng Mười Nga thành công, và là một trong những nhà lãnh đạo của Đảng Xã hội – cách mạng cánh tả. Lúc đầu ông đi với những người Bônsêvich, nhưng sau đó rời bỏ họ. Thời kỳ này ở Châu Âu có nhiều phong trào cách mạng: Rosa Luxemburg ở Berlin, các Xôviết ở Munich, nhóm cách mạng của Bela Kun ở Hungari. Nước Nga bước vào cuộc nội chiến với sự tham gia của nhiều lực lượng khác nhau, trong đó có phái vô chính phủ do Makhnô cầm đầu ở Ucraina (nhân đây, nhắc lại mục tiêu khá buồn cười của Makhnô “Đánh cho bon Đỏ trắng bệch, đánh cho bọn Trắng đỏ nhừ!”. Đỏ: Hồng quân; Trắng: Bạch vệ). Cha của Grothendieck tham gia vào tất cả các phong trào đó! Trong những năm 20 ông sống chủ yếu ở Đức, gia nhập các nhóm chính trị, vũ trang của các đảng cánh tả chống lại Hitler và bọn Quốc xã. Tại Đức, Shapiro gặp Hanka Grothendieck, một phụ nữ Do Thái đến từ miền bắc nước Đức. Ngày 28 tháng 3 năm 1928, họ sinh người con trai đặt tên là Alexandre. Chỉ ít lâu sau, Hitler lên cầm quyền, và từ năm 1933, nước Đức trở nên rất nguy hiểm đối với những nhà cách mạng Do Thái. Cha mẹ của Alexandre lánh nạn sang Pháp, để lại con trai mình trong một trường tư thục gần Hamburg. Năm 1936 cuộc nội chiến Tâybannha bùng nổ. Ông Shapiro tham gia trong đoàn quân chống phát xít Franco. Khi những người cộng hoà Tâybannha thất bại, ông bị đưa vào nhà tù ở Vernet, sau đó chuyển về trại tập trung Ausschwitz (Ôtsơvenxim) và chết tại đó năm 1942.

Hanka Grothendieck cùng với con trai Alexandre sống sót một cách may mắn trong một nước Pháp bài Do Thái dưới thời Thống chế Pêtanh. Họ được những người kháng chiến theo đạo Tin lành ở Cévennes che chở. Mục sư Trocmé, hiệu trưởng trường Lyxê Tin Lành ở Cévennes biến vùng đó thành trung tâm kháng chiến chống bọn chiếm đóng quốc xã. Alexandre Grothendieck  được học và sống ngay trong trường đó.

Về thời kỳ đó, Grothendieck viết trong «Récoltes et semailles. Réflexions et témoignages sur un passé de mathématicien » : “Tôi học năm đầu lycée tr­ước hết ở Đức, sau đó ở Pháp. Năm 1940 là năm đầu tiên tôi học lycée bên Pháp. Lúc đó là chiến tranh. Mẹ tôi và tôi bị giam trong trại tập trung ở Rieucros, gần Mende. Tôi là đứa trẻ lớn nhất ở trại và là đứa duy nhất đi học lycée. Trời tuyết hay trời gió, tôi đi tới tr­ường với những đôi giày tạm, bị thấm nư­ớc. Mấy năm cuối   chiến tranh, trong lúc mẹ tôi vẫn bị giam ở trại tập trung, tôi sống ở một nhà giành cho trẻ con tị nạn của “Secours Suisse” ở Chambon sur Lignon. Phần lớn bọn trẻ chúng tôi là ng­ời Do Thái, và khi cảnh sát địa ph­ương báo cho chúng tôi là  bọn Gestapo sắp vây lùng, chúng tôi chạy vào rừng ẩn náu độ một hai đêm, đi từng nhóm hai hay ba ng­ười, không ý thức lắm về mối hiểm nguy chết ng­ười. Vùng Cévennes đầy những ng­ười Do Thái ẩn náu, và nhiều ng­ười sống sót nhờ tình đoàn kết của dân địa ph­ương. Ở đây, tôi đi học ở “Collège Cévenol” cho đến năm 1945. Giữa 1945 và 1948 tôi là sinh viên ở đại học Montpellier. Mẹ tôi và tôi sống ở xóm nhỏ Mairargner heo hút, cách Montpellier độ hơn chục cây số .Chúng tôi sống tằn tiện bằng cái học bổng sinh viên nghèo nàn của tôi. Để sống đ­ược qua ngày, mỗi hè tôi đi hái nho; và lại có cả cái vư­ờn nữa cho chúng tôi rau quả. Đó là một cuộc sống t­ươi đẹp, trừ khi phải đối mặt với những tiêu pha như­ thay gọng kính hay đôi giày mòn vẹt cả đế …”.

Sau hai năm học ở Montpellier, mùa thu năm 1948, Grothendieck được các thầy giáo giới thiệu lên Paris theo học ở Ecole Normale Superieure với Elie Cartan, một trong những nhà toán học nổi tiếng nhất thời đó. Đó là điểm kết thúc thời niên thiếu, và bắt đầu một thời kỳ vinh quang của Grothendieck, từ 1949 đến 1970.

Sau một năm ở Paris, Grothendieck chuyển đến Nancy, làm việc dưới sự hướng dẫn của Dieudonné. Thời kỳ này anh quan tâm nhiều đến Giải tích hàm. Bản luận án tiến sĩ quốc gia “Tích tenxơ tôpô và các không gian hạch” của Grothendieck, bảo vệ năm 1950, đã trở thành kinh điển, và là điểm khởi đầu cho lý thuyết hình học các không gian Banach. Cũng thời kỳ này, Grothendieck gia nhập nhóm Bourbaki, cùng với Henri Cartan, Dieudonné, André Weil và một số người khác.

Từ năm 1950, Grothendieck nhận được tài trợ của Trung tâm nghiên cứu khoa học quốc gia Pháp. Ông làm việc ở trường Đại học tổng hợp Sao Paulo (Braxin) trong hai năm 1953-1955, sau đó chuyển về Đại học Kansas (Hoa Kỳ). Chính trong thời kỳ này, mối quan tâm của ông chuyển từ Giải tích hàm sang Tôpô và Hình học. Năm 1956 ông trở về Pháp, làm Nghiên cứu viên của Trung tâm nghiên cứu khoa học quốc gia Pháp.

Năm 1959 đánh dấu một cái mốc quyết định trong sự nghiệp của Grothendieck.  Đó là năm ông nhận một “ghế” ở Viện nghiên cứu khoa học cao cấp (Institut des Hautes Etudes Scientifiques, nổi tiếng với tên gọi tắt là IHES) vừa mới thành lập, đặt tại Bures-sur-Yvette, trong vùng thung lũng Essonne xinh đẹp gần Paris. Người ta thường nói, những năm Grothendieck ở IHES (1959-1970) là những năm vàng (Golden Age) của cuộc đời ông. Tại đây, dưới sự lãnh đạo của Grothendieck đã xuất hiện một trường phái mới của toán học. IHES trở thành trung tâm lớn nhất thế giới về Hình học đại số. Nhờ Grothendieck, Hình học đại số mang một diện mạo mới, sau thời kỳ phát triển hoàng kim của nó với “trường phái Italia” nổi tiếng (với những tên tuổi như  Frobenius, Castelnuovo, Fano,…). Cùng với việc đưa vào khái niệm “lược đồ” (Scheme), Grothendieck “đại số hoá” những tư tưởng hình học rực rỡ của trường phái Italia, đưa đến cho hình học đại số những công cụ tính toán mạnh mẽ. Hơn thế nữa, các công trình của Grothendieck cho ta khả năng nhìn nhận toán học hiện đại trong một thể thống nhất: các định lý của ông là sự hợp nhất của hình học, số học, tôpô và giải tích phức.

Khó có thể liệt kê hết những gì mà Grothendieck đã mang lại cho toán học. Đó là tích tenxơ tôpô, không gian hạch, đối đồng điều bó như là các hàm tử dẫn xuất, lược đồ, K- lý thuyết, Định lý  Grothendieck-Riemann-Roch, định nghĩa đại số của nhóm cơ bản của một đường cong, xác định cấu trúc hình học thông qua các hàm tử, phàm trù phân thớ, hình thức luận của đối ngẫu địa phương và toàn cục, đối đồng điều étale, đối đồng điều crystalline, mô tả các L-hàm trong ngôn ngữ đối đồng điều, các “môtip”,…Thật khó hình dung được rằng, tất cả  những tư tưởng lớn như thế của toán học chỉ xuất hiện trong một cái đầu, và chỉ trong khoảng 10 năm! Điều xuyên suốt trong toàn bộ sự nghiệp của Grothendieck chính là cố gắng của ông nhằm “thống nhất” toàn bộ toán học, xoá nhoà ranh giới giữa hình học, đại số, số học, giải tích. Tư tưởng đó của Grothendieck có ảnh hưởng lớn trong sự phát triển của toán học hiện đại, và được thể hiện trong nhiều công trình của nhiều nhà toán học được giải thưởng Fields sau ông: Deligne, Drinfeld, Kontsevich, Voevodsky, Lafforgue, Ngô Bảo Châu.

Grothendieck đã góp phần làm cho IHES thực sự trở thành một trong vài ba trung tâm lớn nhất của toán học thế giới. Chỉ một chi tiết sau đây cũng cho ta thấy rõ điều đó: từ ngày thành lập đến nay, IHES mới có 10 người là “giáo sư chính thức” (professeur permanent) thì đã có 7 người đoạt giải Fields, đó là: Alexandre Grothendieck, René Thom, Jean Bourgain, Alain Connes, Pierre Deligne, Maxim Kontsevich, Laurent Laforgue.

Grothendieck đã làm một cuộc cách mạng thực sự trong toán học. Ông để lại dấu ấn của mình trong mọi lĩnh vực của toán học hiện đại. Người ta có thể nhận ra  ảnh hưởng  của Grothendieck ngay cả khi không thấy trích dẫn định lí cụ thể nào của ông. Điều này cũng giống như ảnh hưởng của Picasso đến thẩm mĩ của thời đại chúng ta: ta nhận ra Picasso không chỉ qua các bức hoạ của ông, mà thấy Picasso ngay trong hình dáng của những vật dụng hàng ngày.

Việc Grothendieck đột ngột rời bỏ IHES, và nói chung, rời bỏ toán học năm 1970, vào thời kì thiên tài của ông đang ở đỉnh cao, đã làm xôn xao giới toán học. Cho đến tận bây giờ, người ta vẫn không thật hiểu rõ tại sao. Nhiều người cho rằng ông không đồng ý với việc IHES nhận một số tiền tài trợ của các cơ quan quân sự (vào thời điểm đó, số tiền này là vào khoảng 3,5% ngân sách của Viện).  Ông là người luôn có những quan điểm riêng của mình, và có thể là như nhiều người quan niệm, ông khá  “ngây thơ” về chính trị. Giáo sư Louis Michel kể lại: có một lần, ông chỉ cho Grothendieck xem bản thông báo về một hội nghị quốc tế mà Grothendieck được mời làm báo cáo viên chính. Trong phần liệt kê các cơ quan tài trợ có NATO, và Michel hỏi Grothendieck xem có biết NATO là gì không, thì Grothendieck trả lời “không”! Sau khi được giải thích NATO là gì, Grothendieck đã viết thư cho ban tổ chức hội nghị để phản đối. Và cuối cùng, vì không muốn mất Grothendieck, ban tổ chức đành chịu mất NATO!

Vậy mà con người có vẻ như ngây thơ về  chính trị, không biết NATO là gì, đã đến thăm và giảng bài tại Việt Nam trong thời gian chiến tranh. Một số người bạn gần gũi với ông, như giáo sư Pierre Cartier, cho rằng Việt Nam chính là một trong những nguyên nhân làm thay đổi quan niệm của Grothendieck. Nhìn thấy những gì chiến tranh mang lại cho loài người, Grothendieck nghi ngờ về ý nghĩa của khoa học.  Ông cho rằng khoa học đã bị lợi dụng để làm hại loài người. Chuyến thăm Việt Nam của ông đã gây một tiếng vang lớn trong cộng đồng toán học quốc tế. Khi đến Việt nam (năm 1967), ông đọc bài giảng về Đại số đồng điều tại Hà Nội. Thường thì Giáo sư Tạ Quang Bửu (lúc đó là Bộ trưởng Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp)  hoặc Giáo sư Đoàn Quỳnh phiên dịch cho ông. Người ta thật sự kinh ngạc vì sự bình tĩnh của ông: các bài giảng của ông thường bị ngắt quãng vì những lần máy bay Mỹ bắn phá thành phố. Vậy mà ông, người đến từ một đất nước đã từ lâu không có chiến tranh, không hề tỏ ra mảy may lo sợ. Nhưng rồi thì các bài giảng của ông cũng phải chuyển lên khu sơ tán, vì không thể nào giảng bài khi mà buổi học bị ngắt quãng hàng chục lần vì máy bay. Ở khu sơ tán, có một hình ảnh về ông mà không bao giờ tôi quên. Đó là có một lần, tôi thấy ông cởi trần ngồi đọc sách, cái áo ướt màu “phòng không” (tên gọi của “màu cỏ úa” thời chiến tranh) vắt trên bụi sim. Hỏi ra mới biết, ông giành toàn bộ va li của mình để mang theo sách vở sang tặng các nhà toán học Việt nam, và chỉ có bộ quần áo duy nhất mặc trên người! Vậy nên mỗi lần giặt, ông phải chờ quần áo khô để mặc lại chứ không có quần áo để thay! Trong thời gian ông ở Việt Nam, mỗi tuần ông đều nhịn ăn ngày thứ sáu. Khi các nhà toán học Pháp biết chuyện, họ đều rất ngạc nhiên vì không thấy ông có thói quen đó khi ở Pháp. Và người ta cho rằng chỉ có thể có một cách giải thích: ông muốn tiết kiệm một phần lương thực cho Việt Nam!  Theo lời ông nói, chuyến đi Việt Nam đã làm ông thật sự ngạc nhiên: ở một đất nước ngày đêm phải đối đầu với cuộc chiến tranh ác liệt bậc nhất trong lịch sử, người ta vẫn dạy toán, học toán, và biết đến những thành tựu hiện đại nhất của toán học! Từ sự ngạc nhiên đó, ông đã công bố “định lí” của mình trong bài viết về chuyến thăm Việt Nam (được lưu hành rất rộng rãi thời đó ở các trường đại học phương Tây): “Tồn tại một nền toán học Việt Nam“.

“Định lí” trên đây của Grothendieck đã làm thế giới toán học biết đến nền toán học Việt nam trong chiến tranh. Chuyến đi của Grothendieck đã mở đầu cho một loạt chuyến đi thăm và giảng bài của nhiều nhà toán học lớn đến Việt Nam, trong đó nhiều nhất vẫn là các nhà toán học Pháp: L. Schwartz, A. Martineau, P. Cartier, B. Malgrange, Y. Amice,…Có thể nói chuyến đi của Grothendieck là một cột mốc quan trọng trong lịch sử hợp tác khoa học giữa các nhà toán học Việt nam và các nhà toán học Pháp.

Từ sau năm 1993,  Grothendieck không còn địa chỉ bưu điện nữa, không ai có thể liên lạc với ông, ngoại trừ một số người bạn gần gũi. Ông sống trong một căn nhà nhỏ bên sườn dãy Pyrénées.  Có lẽ bộ óc lớn bậc nhất của toán học đó đang muốn giành thời gian suy ngẫm về cuộc đời. Cả cuộc đời ông là một chặng đường gian nan đi tìm chân lý. Nếu như các chân lý toán học tìm đến với ông nhiều một cách đáng ngạc nhiên, thì trong cuộc đời, như Cartier nói, Grothendieck không tìm được cho mình một chỗ mà ông thấy thoả mãn. Trong rất nhiều năm, ông không phải là công dân của một quốc gia nào, và đi khắp nơi trên thế giới với tấm hộ chiếu của Liên hợp quốc. Xuất thân trong một gia đình Do Thái giáo truyền thống, Grothendieck được những người kháng chiến theo đạo Tin Lành che chở, và cuối cùng, ông quan tâm nhiều đến Phật Giáo. Ông luôn sống theo những nguyên tắc của riêng mình, và nhiều khi cảm thấy thất vọng trước cuộc sống.

Cuộc đời Grothendieck là một cuộc đời đầy vinh quang, đầy bi kịch, mang đậm chất “tiểu thuyết”, mà trong một bài viết nhỏ không thể nào nói hết được.

Theo blog của Hà Huy Khoái

Discovery is a child’s privilege. I mean the small child, the child who is not afraid to be wrong, to look silly, to not be serious, and to act differently from everyone else. He is also not afraid that the things he is interested in are in bad taste or turn out to be different from his expectations, from what they should be, or rather he is not afraid of what they actually are. He ignores the silent and flawless consensus that is part of the air we breathe – the consensus of all the people who are, or are reputed to be, reasonable.

 

Grothendieck, Récoltes et Semailles (“Crops and Seeds”). 


#14
cuocsongso

cuocsongso

    Lính mới

  • Thành viên
  • 9 Bài viết

học xong 1 hồi mà để lại bao nhiêu thứ






1 người đang xem chủ đề

0 thành viên, 1 khách, 0 thành viên ẩn danh