Đến nội dung

Tat Ngoc

Tat Ngoc

Đăng ký: 16-02-2005
Offline Đăng nhập: 30-12-2010 - 13:08
-----

10 thí nghiệm đẹp

18-03-2005 - 09:48

Những thí nghiệm khoa học hiện nay thường phức tạp, chỉ có thể thực hiện bởi một nhóm nghiên cứu, với chi phí lên tới hàng triệu USD. Tuy nhiên, khi được hỏi về thí nghiệm "đẹp" nhất trong lịch sử khoa học, người ta lại tôn sùng các ý tưởng đơn giản.

Mới đây, tiến sĩ Robert Crease, thuộc khoa triết của Đại học New York (Mỹ), đã làm một cuộc thăm dò ý kiến của các nhà khoa học về "thí nghiệm đẹp nhất trong lịch sử". Kết quả, không phải những thí nghiệm hiện đại và phức tạp (về phân tích gene, về hạt hạ nguyên tử hay đo ánh sáng của các ngôi sao xa...) được chọn là "đẹp" nhất, mà chính những thí nghiệm đơn giản như đo chu vi trái đất, tán xạ ánh sáng, vật rơi tự do... được người ta yêu thích hơn cả. Vẻ đẹp này có một ý nghĩa rất cổ điển: mô hình thí nghiệm đơn giản, logic đơn giản, nhưng kết quả đạt được lại rất lớn.

Dưới đây là thứ tự 10 thí nghiệm được xem là "đẹp" nhất :

-Thí nghiệm về hiện tượng giao thoa của hai chùm electron

Cả Newton và Young đều đã không hiểu được rốt ráo về tính chất của ánh sáng. Người thì cho rằng nó có bản chất là hạt, trong khi người khác lại cho rằng nó có bản chất là sóng. Cuộc tranh luận kéo dài mãi đến những năm đầu của thế kỷ 20. Cuối cùng, thuyết lượng tử của Planck mới kết hợp được hai quan điểm trên của Newton và Yuong. Thuyết của Planck cho rằng, photon và các hạt hạ nguyên tử khác, như electron hoặc proton, đều có 2 tính chất: hạt và sóng.

Để chứng minh lý thuyết trên bằng thực nghiệm, các nhà vật lý đã kế tục ý tưởng của Young trong thí nghiệm về giao thoa ánh sáng. Họ đã dùng một tấm chắn siêu mỏng để chia đôi một chùm electron. Sau đó, khi quan sát hai chùm hạt này, họ thấy chúng cũng tạo ra các điểm giao thoa, tương tự như các điểm sáng - tối trong thí nghiệm về giao thoa ánh sáng của Young.

Đến nay, người ta vẫn không biết chắc thí nghiệm trên được thực hiện lần đầu tiên ở đâu, và ai là tác giả. Theo ông Peter Rodger, biên tập viên khoa học của tạp chí Physics Today, thì lần đầu tiên ông đọc được một bài viết về thí nghiệm này là năm 1961, và tác giả là nhà vật lý Claus Joensson ở Đại học Tueblingen (Tây Đức). Tuy nhiên, có lẽ thí nghiệm trên đã được thực hiện trước đó, có điều, đây là thời kỳ mà người ta tập trung nhiều vào các chương trình khoa học lớn (vũ trụ, thiên văn), và đã không có ai để ý đến nó. Mãi đến khi người ta lật lại lịch sử các thí nghiệm khoa học và cảm nhận được "vẻ đẹp" của các chùm electron, thì họ không biết được ai là người đầu tiên chứng minh được tính sóng của chúng nữa.

Thí nghiệm trên được xếp ở vị trí đầu tiên trong danh sách 10 thí nghiệm đẹp nhất

Thí nghiệm về vật rơi tự do của Galilei

Cuối thế kỷ 16, người ta đều tin rằng, vật thể nặng rơi nhanh hơn vật thể nhẹ. Lý do là Aristotle đã nói như vậy, và quan điểm đó được Nhà thờ công nhận.

Tuy nhiên Galileo Galilei, một thầy giáo dạy toán ở Đại học Pisa (Italy) lại tin vào điều khác hẳn. Thí nghiệm về vật rơi tự do của ông đã trở thành câu chuyện kinh điển trong khoa học: Ông đã leo lên tháp nghiêng ở Pisa để thả các vật có khối lượng khác nhau xuống đất, và rút ra kết luận là chúng rơi với tốc độ như nhau! (tất nhiên phải bỏ qua sức cản của không khí). Vì kết luận này mà ông đã bị đuổi việc. Ông trở thành tấm gương sáng cho các nhà nghiên cứu sau này, vì đã chỉ ra rằng: Người ta chỉ có thể rút ra kiến thức khoa học từ các quy luật khách quan của thiên nhiên, chứ không phải từ niềm tin.

Thí nghiệm trên đứng số 2 trong "bảng xếp hạng" của Robert Crease


-Thí nghiệm về giọt dầu của Millikan

Trước thế kỷ 17, người ta đã từng biết đến các hiện tượng điện, như sự phóng điện của các đám mây, hay điện tích sinh ra do sự cọ sát giữa hai vật. Tuy nhiên, phải đến năm 1897, nhà vật lý người Anh J.J. Thomson mới phát hiện ra một loại hạt tích điện, gọi là điện tử (electron). Có điều, ngay cả Thomson cũng đã không xác định được giá trị điện tích của electron.

Năm 1909, nhà vật lý người Mỹ Robert Millikan đã làm một thí nghiệm nổi tiếng, gọi là "thí nghiệm về giọt dầu" (oil-drop experiment). Trong thí nghiệm này, Millikan đã đặt một hiệu điện thế cực lớn (khoảng 10.000 V) giữa hai điện cực kim loại. Sau đó, ông dùng một máy phun, thả các giọt dầu rơi tự do giữa hai điện cực này.

Ban đầu, giọt dầu không tích điện, nên nó rơi dưới tác dụng của trọng lực. Tuy nhiên sau đó, Millikan đã dùng một chùm rơnghen để ion hóa giọt dầu này, cấp cho nó một điện tích. Vì thế, giọt dầu này đã rơi nhanh hơn, vì ngoài trọng lực, nó còn chịu tác dụng của điện trường. Dựa vào khoảng thời gian chênh lệch khi hai giọt dầu rơi hết cùng một đoạn đường, Millikan đã tính ra điện tích của một hạt tích điện nhỏ nhất là 1 electron: e = 1,63 · 10-19 As.

Năm 1917, Millikan lặp lại thí nghiệm trên, và đã sửa điện tích của 1 electron là e = 1,59 · 10-19 As. Những đo đạc hiện nay dựa trên nguyên lý của Millikan cho kết quả là e = 1,602 · 10-19 As.

Oil-drop experiment được đứng thứ 3 trong "bảng xếp hạng" của Robert Grease.


-Thí nghiệm về "sự phân tán ánh sáng"

Trước Newton, người ta vẫn cho rằng ánh sáng là một thể tinh khiết, không thể phân tách (lại Aristotle!). Tuy nhiên, Newton đã chỉ ra sai lầm này, khi ông dùng lăng kính để tách ánh sáng mặt trời ra các màu khác nhau rồi chiếu lên tường.

Thí nghiệm của Newton cho thấy, ánh sáng trắng không hề "nguyên chất", mà nó là tổng hợp của một dải quang phổ 7 màu cơ bản: đỏ, da cam, vàng, xanh lá cây, xanh nước biển, chàm, tím.

Thí nghiệm về "sự phân tán ánh sáng" nói trên của Newton được xếp thứ 4 trong "bảng xếp hạng" của Robert Crease.


Thí nghiệm về sự giao thoa ánh sáng của Young

Nhiều năm liền, Newton đã dẫn các nhà khoa học vào một con đường sai lầm khi ông cho rằng ánh sáng được cấu thành từ hạt chứ không phải sóng. Tuy nhiên, năm 1803, nhà vật lý người Anh Thomas Young đã phản bác được quan điểm của Newton bằng thí nghiệm sau:

Young khoét một lỗ ở cửa kính, rồi che lại bằng một miếng giấy dày, có châm một lỗ nhỏ như đầu kim. Sau đó, Young dùng một tấm gương để làm chệch hướng đi của tia sáng mảnh rọi qua lỗ nhỏ của miếng giấy. Tiếp theo, ông dùng một mảnh bìa cực mảnh (cỡ 0,1 milimét) đặt vào giữa tia sáng để tách nó ra làm hai. Khi hai tia sáng này chiếu lên tường, Young nhận thấy có các điểm sáng và điểm tối đan xen với nhau. Đây rõ ràng là hiện tượng giao thoa của ánh sáng (điểm sáng là nơi hai đỉnh sóng giao nhau, còn điểm tối là nơi một đỉnh sóng giao thoa với một lũng sóng để triệt tiêu nhau). Như vậy, ánh sáng phải có tính sóng.

Thí nghiệm trên được xếp thứ 5 trong "Top 10 thí nghiệm đẹp".


-Thí nghiệm về "sợi dây xoắn" của Cavendish

Thí nghiệm của Cavendish: Lực hấp dẫn sẽ làm cây gậy bị xoay đi một góc và sợi dây xoắn lại.
Chúng ta đều biết rằng Newton là người tìm ra lực hấp dẫn. Ông đã chỉ ra rằng, hai vật luôn hút nhau bằng một lực tỷ lệ thuận với khối lượng và tỷ lệ nghịch với bình phương khoảng cách giữa chúng. Tuy nhiên, làm sao để chỉ cho người khác thấy lực hấp dẫn bằng thí nghiệm (vì nó quá yếu)?

Cuối thế kỷ 18, nhà khoa học người Anh Henry Canvadish đã làm một thí nghiệm tinh xảo như sau: Ông cho gắn hai viên bi kim loại vào hai đầu của một thanh gỗ, rồi dùng một sợi dây mảnh treo cả hệ thống lên, sao cho thanh gỗ nằm ngang. Sau đó, Cavendish đã dùng hai quả cầu chì, mỗi quả nặng 170 kg, tịnh tiến lại gần hai viên bi ở hai đầu gậy. Theo giả thuyết, lực hấp dẫn do hai quả cầu chì tác dụng vào hai viên bi sẽ làm cho cây gậy quay một góc nhỏ, và sợi dây sẽ bị xoắn một vài đoạn.

Kết quả, thí nghiệm của Canvadish được xây dựng tinh vi đến mức, nó phản ánh gần như chính xác giá trị của lực hấp dẫn. Ông cũng tính ra được một hằng số hấp dẫn gần đúng với hằng số mà chúng ta biết hiện nay. Thậm chí Canvadish còn sử dụng nguyên lý thí nghiệm này để tính ra được khối lượng của trái đất là 60x1020kg.

Thí nghiệm trên được xếp thứ 6 trong "Top 10 thí nghiệm đẹp".

-Thí nghiệm đo đường kính trái đất của Erasthenes

Vào một ngày hạ chí cách đây khoảng 2.300 năm, tại thành phố Awan của Ai Cập, Erasthenes đã xác định được thời điểm mà ánh sáng mặt trời chiếu thẳng đứng xuống bề mặt đất. Có nghĩa là bóng của một chiếc cọc thẳng đứng trùng khớp với chân cọc.

Cùng thời điểm đó năm sau, ông đã đo bóng của một chiếc cọc đặt ở Alexandria (Hy Lạp), và phát hiện ra rằng, ánh nắng mặt trời nghiêng 7 độ so với phương thẳng đứng.

Giả định rằng trái đất là hình cầu, thì chu vi của nó tương ứng với một góc 360 độ. Nếu hai thành phố (Awan và Alexandria) cách nhau một góc 7 độ, thì góc đó phải tương ứng với khoảng cách giữa hai thành phố ấy (với giả định rằng cả hai thành phố cùng nằm trên đường xích đạo). Dựa vào mối liên hệ này, Erasthenes đã tính ra chu vi trái đất là 250.000 stadia.

Đến nay, người ta vẫn chưa biết chính xác 1 stadia theo chuẩn Hy Lạp là bao nhiêu mét (có thể là chiều dài của một sân vận động?), nên chưa thể có kết luận về độ chính xác trong thí nghiệm của Erasthenes. Tuy nhiên, phương pháp của ông hoàn hợp lý về mặt logic. Nó cho thấy, Erasthenes không những đã biết trái đất hình cầu, mà còn hiểu về chuyển động của nó quanh mặt trời.

Thí nghiệm trên được xếp ở vị trí thứ 7 trong bảng "xếp hạng các thí nghiệm đẹp nhất" của Robert Crease



-Thí nghiệm về các viên bi lăn trên mặt dốc của Galilei

Một lần nữa, Galileo Galilei lại có một thí nghiệm được lọt vào "Top 10 thí nghiệm đẹp nhất". Để kiểm chứng một đại lượng gọi là gia tốc, Galilei đã thiết kế một tấm ván dài 5,5 mét, rộng 0,22 mét. Sau đó, ông cho xẻ một rãnh ở giữa tấm ván...

Galilei dựng tấm ván dốc xuống, rồi thả các viên bi đồng theo rãnh. Sau đó, ông dùng một chiếc đồng hồ nước để đo thời gian mà viên bi di chuyển trên một quãng đường nhất định (Galilei đã đo đường đi của viên bi và cân số nước do đồng hồ nhỏ ra để suy ra tỷ lệ giữa đường đi và thời gian di chuyển của vật thể).

Galilei khám phá ra rằng, càng xuống chân dốc, viên bi chạy càng nhanh: Quãng đường đi tỷ lệ thuận với bình phương của thời gian di chuyển. Lý do là viên bị luôn chịu tác dụng của một gia tốc (gây ra bởi lực hút của trái đất). Đó chính là gia tốc tự do (g=9,8 m/s2).

Thí nghiệm trên được xếp thứ 8 trong "bảng xếp hạng" của Robert Crease.



-Thí nghiệm : bắn các hạt alpha vào một lá vàng mỏng

Trước khi Ernest Rutherford thực hiện thí nghiệm về sự bức xạ của các hạt alpha năm 1911, người ta vẫn nhầm tưởng rằng nguyên tử có cấu trúc "mềm": gồm các hạt tích điện dương đan xen với các electron, tạo thành một hỗn hợp "plum pudding" (mứt mận).

Rutherford là người phát hiện ra hạt alpha (đây là một trong 3 loại hạt phóng xạ cơ bản: alpha, beta và proton. Trong đó, hạt alpha là hạt nhân của hellium, gồm hai proton và 2 neutron). Năm 1911, ông đã làm một thí nghiệm nổi tiếng: bắn các hạt alpha vào một lá vàng mỏng. Ông ngạc nhiên khi phát hiện ra rằng, có một phần rất nhỏ các hạt alpha đã phản hồi lại.

Rõ ràng, nếu cấu trúc nguyên tử có dạng mềm như plum pudding thì đã không thể có sự phản hồi này, mà các hạt alpha sẽ bị dính hết vào các nguyên tử vàng, tương tự như khi người ta ném một cục bột mềm vào một chậu bánh mứt. Điều đó cho thấy, trong cấu trúc nguyên tử, ngoài các electron, phải có một hạt nhân rất cứng.

Sau những tính toán và phân tích phức tạp, Rutherford chỉ ra rằng, nguyên tử gồm có một hạt nhân nặng ở giữa (tích điện dương) và các điện tử quay trên những quỹ đạo khác nhau, tương tự như các hành tinh quay quanh hệ mặt trời. Ở giữa là những khoảng không. Đến nay, mô hình nguyên tử của Rutherford vẫn còn nguyên giá trị.

Thí nghiệm trên được xếp thứ 9 trong danh sách 10 thí nghiệm đẹp nhất.


-Thí nghiệm về "con lắc nhà thờ Pathéon"

Trong các thành tựu khoa học thế kỷ 19, có lẽ hiếm có sự kiện nào gây chấn động mạnh hơn thí nghiệm về "con lắc nhà thờ Pathéon", thực hiện bởi nhà khoa học Pháp Jean-Bernard-Léon Foucault. Với thí nghiệm này, Foucault đã chỉ ra rằng, trái đất quay xung quanh trục của nó.

Năm 1851, Foucault đã sử dụng một sợi dây thép dài 68 mét để treo một quả cầu sắt nặng 31 kg lên nóc nhà thờ Pathéon ở Paris. Sau đó, ông đã dùng một lực ban đầu để đẩy quả cầu cho nó lắc đi lắc lại.

Ở dưới đáy quả cầu, Foucault cho gắn một chiếc kim nhỏ. Mỗi khi con lắc di chuyển, chiếc kim này lại kẻ những vệt lên trên nền cát ẩm mà người ta đã cho trải trên nền nhà thờ trước đó.

Trước con mắt kinh ngạc của những người xem, vệt kim mà quả cầu để lại trên mặt cát liên tục thay đổi sau mỗi lần quả cầu lắc qua lắc lại. Tuy rằng tốc độ thay đổi rất chậm chạp, nhưng sau khoảng 30 giờ, con lắc đã đổi hướng đúng 1 vòng theo chiều kim đồng hồ. Với kết quả này, Foucault là người đầu tiên đã chỉ ra bằng thực nghiệm rằng, trái đất quay xung quanh trục của nó.

Paris nằm ở phương bắc, nên con lắc đã dịch chuyển theo chiều kim đồng hồ. Nếu thí nghiệm được thực hiện ở phương nam, con lắc sẽ chuyển động ngược với chiều kim đồng hồ. Thời gian để trục quay của con lắc đi hết một vòng cũng phụ thuộc vào từng khu vực địa lý, như ở Paris là 30 tiếng, và ở Nam Cực là 24 tiếng đồng hồ. Riêng ở xích đạo, trục quay của con lắc sẽ không chuyển dịch.

Thí nghiệm trên được xếp thứ 10 trong "bảng xếp hạng" của Robert Crease

Nguồn: http://vnexpress.net

Ý Nghĩa Các Chữ Cái

18-03-2005 - 09:21

Bạn chớ có tưởng rằng chỉ có chữ Hán và chữ Ả Rập cổ mới là thứ chữ tượng hình.Ngay cả mẫu tự Latinh ta đang sử dụng cũng có nguồn gốc từ chữ tượng hình.
Để hình thành nên chữ cái hiện đại ngày nay,chúng đã trải qua một quá trình ìtiến hoá” khá thú vị.Cách đây hơn khoảng 3500 năm để viết được một từ hay một cái tên,con người thời xa xưa đã dùng hình ảnh của các sự vật quen thuộc để diễn tả như con lạc đà,bò mộng hay ngôi nhà… những bộ phận trên cơ thể (đầu,tay…) mửi một hình ảnh như vậy tượng trưng cho một chữ cái và chúng cũng mang một ý nghĩa nhất định.Do tính phức tạp của các hình vẽ,người ta dần lược bớt các nét vẽ cho đến khi chúng trở thành biểu tượng.Tiếp tục một quá trình lượt bớt nữa,chúng ta có được những chữ cái như ngày nay.

---Ý nghĩa của các chữ cái theo tự dạng Latinh mà chúng ta đang sử dụng:

---Chữ cái ==> Bắt nguồn từ hình ảnh ==> Ý nghĩa


A ==> đầu bò ==> chỉ sức mạnh,lòng khoan dung,trí tuệ,sự khởi đầu.
B ==> ngôi nhà ==> chỉ tính nội tâm khép kín đồng thời cũng chỉ sự đón tiếp,lứa đôi,gia đình và cả tính năng động nữa.
C ==> lạc đà ==> chỉ sự hiền lành chín chắn,khôn ngoan.
D ==> cánh cửa ==> chỉ sự dồi dào,giàu có ( hậu vận ìkhá” đấy)
E ==> con người ==> chỉ sự nhân đạo,hạnh phúc,cảm hứng,năng lượng.
F ==> cái đinh ==> chỉ sự tự nguyện,các mối quan hệ,giao tiếp.
G ==> 2 thanh kiếm bắt chéo ==> tượng trưng cho quân đội,xung đột, đối đầu.
H ==> thành luỹ ==> chỉ năng khiếu chung thủy
I,J ==> bàn tay ==> năng khiếu,sự trao đổi,sự thống nhất,sự hạnh phúc.
K ==> lòng bàn tay ==> chỉ việc thiện,buôn bán,sự phồn thịnh,hoà bình.
L ==> ngòi chích của ong ==> chỉ sự sáng tạo,khả năng tiến lên cao,năng động,thông minh.
M ==> nước ==> nguồn gốc,sự chuyển động,sự năng động.
N ==> con cá ==> sự bạo dạn,cá tính,sự hạnh phúc,giàu sang.
O ==> con mắt ==> sự tin đời,năng khiếu hùng biện.
P ==> cái miệng ==> nói nhiều,thần giao cách cảm.
Q ==> khối lượng ==> lạnh lùng,sự xa cách,sự trống rửng.
R ==> cái đầu ==> chỉ con người tri thức và có định hướng.
S ==> cái răng ==> chỉ khả năng phân tích,sự say mê tìm tòi nghiên cứu.
T ==> cái khiên ==> chỉ sự gặp gỡ hay tiếp xúc một quá trình.
U ==> cái đinh ==> giống chữ F
V ==> cái đinh ==> giống chữ F
W ==> những cái đinh ==> những cái đinh
X ==> cái thang ==> sự giúp đỡ, ủng hộ.
Y ==> mu bàn tay ==> giống chữ I
Z ==> thanh kiếm ==> giống chữ G

Ví dụ:

Từ Mẹ: M chỉ nguồn gốc,chữ E chỉ sự hạnh phúc,sum vầy.Mẹ là người sinh ra ta luôn nâng niu,chăm sóc và mang đến hạnh phúc cho chúng ta.

Tên Nhiên ...

==> là một người không ưu sự ồn ào,náo nhiệt.thích tự giam mình trong phòng nghe nhạc, đọc sách và cả ngủ nữa ( chữ H ).Có một gia đình hạnh phúc,có một chút tài lẻ ( chữ I ).Luôn muốn mình là người có ích vì vậy rất hay làm việc thiện.Nhờ có chút âm đức đó mà luôn được hạnh phúc,giàu có….

Tìm ra số nguyên tố lớn nhất

18-03-2005 - 09:17

Một sinh viên cao học 26 tuổi của Mỹ vừa làm nên một kỳ tích toán học khi phát hiện ra số nguyên tố lớn nhất từ trước tới nay. Con số gồm 6.320.430 chữ số và để viết hết ra thì phải mất 2 tuần và tốn một chiều dài 2 km.Michael Shafer, sinh viên kỹ sư hoá học tại Đại học Michigan, đã phải mất 2 năm để tìm ra con số trên, nhờ vào một mạng máy tính gồm hơn 200.000 chiếc. Công việc của Shafer nằm trong dự án quốc tế Great Internet Mersenne Prime Search (GIMPS), thu hút hơn 60.000 tình nguyện viên đến từ mọi nơi trên thế giới.


"Khi nhìn thấy máy tính chỉ ra con số nguyên tố mới, tôi đã nhảy cẫng lên và liền gọi vợ và bạn đến chia sẻ tin vui", Shafer phấn khởi nói.

Số nguyên tố là những số nguyên dương chỉ có thể chia hết cho 1 và chính nó. Số nguyên tố Mersenne là một dạng nguyên tố đặc biệt có công thức 2p-1, trong đó p cũng là một nguyên tố. Con số mới sẽ có dạng 2^(20.996.011)-1. Đó là con số Mersenne thứ 40 mới được tìm thấy từ trước tới nay.

Số nguyên tố Mersenne được Euclid đề cập đến lần đầu tiên vào năm 350 trước Công nguyên và đã trở thành một lĩnh vực nghiên cứu quan trọng. Nó được lấy tên từ một nhà sư người Pháp vào thế kỷ 17, người đầu tiên tìm ra những giá trị của p.

Số nguyên tố có những tác dụng thực tiễn như giúp mã khoá các cuộc giao tiếp trên Internet để không ai có thể nghe trộm. Tuy vậy, các nhà toán học vẫn chưa thể tìm ra công thức chung để nhận diện những số nguyên tố mới.

Theo nhà toán học Marcus du Sautoy tại Đại học Oxford, phát hiện mới rất có ý nghĩa, nhưng vẫn chưa giúp ích nhiều trong việc tìm ra quy luật xuất hiện của số nguyên tố.

Dự án GIMPS sử dụng một máy chủ trung tâm và phần mềm miễn phí để kết hợp sức mạnh của hàng trăm máy tính thành viên. Mỗi máy tính sẽ được phân bố để kiểm tra những con số nguyên tố khác nhau. Phát hiện của Shafer được thực hiện từ ngày 17/11, nhưng phải đến ngày 2/12 nó mới được xác nhận.

"Vẫn còn nhiều con số nguyên tố giấu mặt, bất cứ ai có máy tính kết nối Internet đều có thể tham gia dự án", George Woltman, người khởi xướng dự án GIMPS từ năm 1996, tuyên bố

Hãy giúp mình

18-03-2005 - 09:09

Bài 1:Cho http://dientuvietnam...a_1,a_2,...,a_n thỏa mãn:http://dientuvietnam.net/cgi-bin/mimetex.cgi?a_1a_2+a_2a_3+...+a_{n-1}a_n=1
Tìm giá trị nhỏ nhất của:http://dientuvietnam.net/cgi-bin/mimetex.cgi?\sum_{i=1}^{n}{a_{i}^2

Bài 2:CMR số nguyên tố http://dientuvietnam...n/mimetex.cgi?p ko chia hết số nguyên dương a thì p chia hết http://dientuvietnam...x.cgi?a^{p-1}-1 (ĐLí Fermat)

Bài 3:CMR nếu http://dientuvietnam...n/mimetex.cgi?p là 1 số nguyên tố thì : chia hết cho p (DLí Wilson)

Các công trình đỉnh cao

15-03-2005 - 09:37

Bạn đọc tạp chí Physics World đã bình chọn những phương trình được ưa thích nhất của mọi thời đại. Nhưng ý nghĩa của chúng là gì? Phó tổng biên tập tạp chí, tiến sĩ Matin Durrani, đã đưa ra một chỉ dẫn đơn giản cho 5 phương trình đầu bảng.

1. Đồng hạng nhất - lý thuyết điện từ của Clerk Maxwell

∇.D=p

∇.B=0

∇xE=-∂B/∂t

∇xH= ∂D/∂t+j

Trong đó D là trường dịch chuyển (displacement field), E là điện trường (electric field), B là mật độ thông lượng từ (magnetic-flux density), H là cường độ từ trường (magnetic-field strength), p là mật độ điện tích tự do (free charge density) và j là mật độ dòng tự do (free current density).

Công thức này được nhà vật lý Scotland nổi tiếng James Clerk Maxwell viết ra năm 1873. Chúng mô tả sự biến đổi của một sóng điện từ - chẳng hạn một chùm sáng, một tia X hoặc một sóng viba - theo không gian và thời gian.

Điều thú vị về phương trình này là chúng cho thấy điện trường và từ trường - hai loại lực mà trước đó các nhà khoa học nghĩ rằng chẳng có quan hệ gì với nhau - thực ra lại có liên kết chặt chẽ. Sau phát hiện này, các nhà vật lý tiếp tục liên kết lực điện từ với hai loại lực khác của tự nhiên là lực hạt nhân mạnh và lực hạt nhân yếu - hai lực tác động ở trong nhân của nguyên tử.

Kết quả của giả thuyết được gọi là Mô hình chuẩn của vật lý hạt(Standard Model). Thách thức lớn nhất đối với giới khoa học giờ đây là tìm hiểu rằng liệu lực hấp dẫn - loại lực cơ bản thứ tư trong tự nhiên - có liên quan với mô hình này hay không. Vì thế Maxwell thực chất là nhà vật lý đầu tiên tiến hành hợp nhất các lực của tự nhiên thành một khung lý thuyết đơn nhất.

Phương trình của Maxwell được sử dụng rộng rãi trong ngành công nghiệp viễn thông, Chẳng hạn, để thiết kế các ăngten cho điện thoại di động của bạn.

2. Đồng hạng nhất - Phương trình của Euler

ei p + 1 = 0

Phương trình được khám phá bởi nhà toán học Thụy Sĩ Leonhard Euler vào thế kỷ 18. Các nhà vật lý thích phương trình này bởi nó chứa đựng 9 khái niệm cơ bản của toán học trong một công thức duy nhất.

9 khái niệm này bao gồm: p bằng chu vi của một đường tròn chia cho đường kính của nó, i - là căn bậc hai của một số âm, và e - là số 2.71828. Sáu khái niệm còn lại là: phép nhân, cộng, phương trình, một, không và "phép tính số mũ".

Phương trình này có ích gì cho bạn? Chẳng gì cả. Công thức của Euler thuần túy là một công thức toán học không có liên quan hiển nhiên nào với thực tế, mặc dù nó được một số nhà vật lý đánh giá là "đẹp".

3. Định luật thứ hai của Newton

F= ma

Công thức này mô tả một thực tế là nếu bạn dùng một lực (F) tác động lên một vật có khối lượng m, vật này sẽ đạt được một gia tốc a nào đó. Phương trình được Isaac Newton mô tả vào cuối thế kỷ 17 và là nền tảng của định luật thứ hai về chuyển động của ông.

Ích lợi của phương trình? Định luật hai của Newton có thể được dùng để giải thích bằng cách nào chiếc xe Mini Cooper mới cóng của bạn có thể tăng tốc từ 0 đến 60 dặm/giờ.

4. Định lý Pythagoras

a²+b²=c²

Một công thức học đường được ưa thích. Định lý Pythagoras giải thích về mối liên quan giữa các cạnh của một tam giác vuông. Nếu a và b là độ dài của hai cạnh ngắn hơn và c là độ dài của cạnh dài nhất, và muốn tìm ra độ dài của c, bạn chỉ việc tính tổng của bình phương hai cạnh ngắn và lấy căn bậc hai của tổng đó. Công thức này được nhà khoa học Hy Lạp cổ đại Pythagoras mô tả vào thế kỷ 6 trước Công nguyên.

Ứng dụng của phương trình này? Phương trình của Pythagoras hỗ trợ trong phép đo tam giác, giúp chỉ ra vị trí của một ai đó đang sử dụng điện thoại di động chỉ bằng cách sử dụng tín hiệu phản hồi từ 3 ăngten di động khác.

5. Phương trình của Schrödinger

HΨ=EΨ

Công thức được viết bởi nhà vật lý người Áo Erwin Schrödinger vào giữa những năm 1920. Nó mô tả phản ứng của các hạt hạ nguyên tử (như electron), và giúp đóng góp vào lý thuyết "cơ chế lượng tử".

Với các hạt nhỏ như electron, người ta không thể nói chính xác vị trí của chúng trong không gian cũng như tốc độ chuyển động của chúng. Tất cả những gì bạn có thể làm là giả định chúng đang ở một vị trí nào đó trong một khoảng thời gian nhất định. Ký hiệu Ψ trong phương trình được gọi là "hàm sóng" - mô tả khả năng vật thể tồn tại ở những điểm khác nhau trong không gian.

Ích lợi của phương trình? Phương trình của Schrödinger có nhiều ứng dụng trong các thiết bị điện tử. Chẳng hạn, nó được Công ty Quantum Beam ở Cambridge sử dụng để xây dựng một hệ thống dựa trên laser, cho phép kết nối máy tính ở nhà của bạn với mạng Internet mà không cần dây dẫn.

6. Phương trình của Einstein

E=mc²

Công thức nổi tiếng của Einstein cho thấy khối lượng và năng lượng là không thể tách rời. Nếu một vật thể có khối lượng m, nó sẽ có năng lượng là E=mc², trong đó c là vật tốc ánh sáng. Vì c là cực lớn - ánh sáng di chuyển ở tốc độ 300 triệu mét mỗi giây - nên ngay cả những vật cực nhỏ cũng có năng lượng rất lớn.

Một cách tương đương, năng lượng cũng có khối lượng. Bạn có thể sẽ được nghe nhiều về phương trình này vào năm 2005, trong lần kỷ niệm lần thứ 100 ngày Einstein khám phá ra nó như một phần trong thuyết tương đối của ông.

Ích lợi của phương trình này? E=mc² quyết định lượng năng lượng giải phóng ra khi các nguyên tử bị phân chia trong lò phản ứng của nhà máy điện hạt nhân.

Nguồn: VnExpress - Thuận An (theo BBC)